Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chim”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Đã lùi lại sửa đổi của 113.189.174.165 (Thảo luận) quay về phiên bản cuối của AlphamaBot4
Thẻ: Lùi tất cả
Việt hóa bản mẫu
Dòng 45:
{{la icon}} {{Chú thích sách |last=Linnaeus |first=Carolus |authorlink=Carolus Linnaeus |title=[[Systema Naturae|Systema naturae per regna tria naturae, secundum classes, ordines, genera, species, cum characteribus, differentiis, synonymis, locis. Tomus I. Editio decima, reformata]] |publisher=Holmiae. (Laurentii Salvii) |year=1758 |page=824 |url=}}</ref>. Trong hệ thống [[phân loại Linnaeus]], các loài chim được phân vào lớp ''Aves''. Việc phân loại dựa trên nguồn gốc phát sinh đã xếp Aves vào trong nhánh khủng long [[Khủng long chân thú|Theropoda]] (Khủng long chân thú)<ref name="Theropoda">{{chú thích tạp chí |last=Livezey |first=Bradley C. |coauthors=Richard L. Zusi |date=2007-01 |title=Higher-order phylogeny of modern birds (Theropoda, Aves: Neornithes) based on comparative anatomy. II. Analysis and discussion |journal=Zoological Journal of the Linnean Society |volume=149 |issue=1 |pages=1–95 |doi=10.1111/j.1096-3642.2006.00293.x}}</ref>. Aves cùng với nhóm chị em [[Bộ Cá sấu|Crocodilia]] (Bộ Cá sấu) là những thành viên duy nhất còn sống sót của nhánh bò sát [[Archosauria|Archosaur]]. Xét theo phát sinh chủng loại, Aves được xác định là tất cả các hậu duệ của tổ tiên chung gần nhất của các loài chim hiện đại và ''[[Archaeopteryx|Archaeopteryx lithographica]]''<ref>{{Chú thích sách |last=Padian|first=Kevin|authorlink=Kevin Padian|coauthor=L.M. Chiappe Chiappe LM |editor=[[Philip J. Currie]] & Kevin Padian (eds.) |title=Encyclopedia of Dinosaurs|year=1997|publisher=[[Academic Press]]|location=San Diego|pages=41–96|chapter=Bird Origins|isbn=0-12-226810-5}}</ref>. Theo định nghĩa này, ''Archaeopteryx'', xuất hiện từ giai đoạn [[Tithonia]] của [[Jura muộn]] (150-145 triệu năm trước), là chi chim sớm nhất được biết đến. Những luận điểm khác, bao gồm [[Jacques Gauthier]] và những người ủng hộ hệ thống [[PhyloCode]], đã xác định Aves chỉ bao gồm các nhóm chim hiện đại, chứ không gồm hầu hết các nhóm chim chỉ được biết đến qua hóa thạch, và thay vào đó đã xếp chúng vào nhóm lớn [[Avialae]]<ref>{{Chú thích sách |last=Gauthier |first=Jacques|editor=Kevin Padian |title=The Origin of Birds and the Evolution of Flight|series= Memoirs of the California Academy of Science '''8'''|year=1986|pages=1–55|chapter=Saurischian Monophyly and the origin of birds|isbn=0-940228-14-9}}</ref>, một phần để tránh được sự không rõ ràng về vị trí của Archaeopteryx trong giới động vật mà theo quan điểm truyền thống thường coi chúng là những khủng long chân thú.
 
Tất cả các loài chim hiện đại đều nằm trong phân lớp [[Neornithes]], chia thành hai nhóm: [[Paleognathae]], bao gồm hầu hết các loài không biết bay như [[bộ Đà điểu|đà điểu]], và [[Cận lớp Chim hàm mới|Neognathae]] đa dạng hơn, chứa tất cả những loài còn lại<ref name="Theropoda"/>. Hai nhóm này thường được xếp ở cấp bậc [[siêu bộ]]<ref>{{Chú thích web |url=http://people.eku.edu/ritchisong/birdbiogeography1.htm |lasthọ 1=Ritchison| firsttên 1=Gary |titletiêu đề=Bird biogeography |accessdatengày truy cập = ngày 19 tháng 12 năm 2008 |formatđịnh dạng= |work= |publishernhà xuất bản=Eastern Kentucky University}}</ref>, dù Livezey & Zusi đã đặt chúng ở cấp "''[[wikt:cohort|cohort]]''"<ref name="Theropoda"/>. Tùy vào quan điểm phân loại khác nhau, số lượng loài chim còn tồn tại dao động từ 9.800<ref>{{Chú thích sách |title=[[The Clements Checklist of Birds of the World]] |first=James F. |last=Clements |edition=6th edition |authorlink=James Clements |location=Ithaca |publisher=[[Cornell University Press]] |year=2007 |isbn=978-0-8014-4501-9
}}</ref> cho đến 10.050 loài<ref>{{Chú thích sách |last=Gill |first=Frank |authorlink=Frank Gill (nhà điểu cầm học) |year=2006 |title=Birds of the World: Recommended English Names |location=Princeton |publisher=Nhà in Đại học Princeton |isbn=978-0-691-12827-6}}</ref>.
 
Dòng 335:
Chim sống và sinh sản ở hầu hết các môi trường trên cạn cũng như ở cả bảy lục địa, trong đó nắm giữ kỷ lục phương Nam là loài [[Pagodroma nivea|hải âu pêtren tuyết]] (''Pagodroma nivea'') khi có thể sinh sản ở khu vực lấn sâu tới 440 kilômét trong [[châu Nam Cực]]<ref>{{Chú thích sách |last=Brooke |first=Michael |year=2004 |title=Albatrosses And Petrels Across The World |location=Oxford |publisher=Oxford University Press|isbn=0-19-850125-0|pages=}}</ref>. Tính [[đa dạng sinh học|đa dạng]] cao nhất về các loài chim thuộc những khu vực [[nhiệt đới]]. Trước đây, người ta nghĩ rằng tính đa dạng cao là kết quả của tốc độ [[hình thành loài]] cao ở những khu vực này, nhưng những nghiên cứu gần đây cho thấy, ở khu vực có [[vĩ độ]] cao, tốc độ hình thành loài dù cao hơn nhưng lại bị bù trừ bởi tốc độ tuyệt chủng mà cũng lớn hơn so với vùng nhiệt đới<ref>{{chú thích tạp chí |last=Weir |first=Jason T. |coauthors=Dolph Schluter |month=Tháng 3|year=2007 |title=The Latitudinal Gradient in Recent Speciation and Extinction Rates of Birds and Mammals |journal=[[Science]] |volume=315 |issue=5818 |pages=1574–76 |doi=10.1126/science.1135590 |pmid=17363673}}</ref>. Vài họ chim lại có cuộc sống thích nghi ở cả môi trường đại dương, trong số đó, có những loài chim biển vào bờ chỉ duy để sinh sản<ref name = "Burger">{{Chú thích sách |last=Schreiber |first=Elizabeth Anne |coauthors=Joanna Burger |year=2001 |title=Biology of Marine Birds |location=Boca Raton |publisher=CRC Press |isbn=0-8493-9882-7|pages=}}</ref>, và một số chim cánh cụt lại được ghi nhận là có thể lặn ở độ sâu tới 300 [[mét]] (980 [[foot|ft]])<ref>{{chú thích tạp chí |last=Sato |first=Katsufumi |coauthors=Y. Naito, A. Kato ''et al.'' |month=Tháng 5|year=2002 |title=Buoyancy and maximal diving depth in penguins: do they control inhaling air volume? |journal=Journal of Experimental Biology |volume=205 |issue=9 |pages=1189–1197 |pmid=11948196 |url=http://jeb.biologists.org/content/205/9/1189.full}}</ref>.
 
Nhiều loài chim đã thành lập những [[Quần thể (sinh học)|quần thể]] giao phối ở những vùng mà chúng được [[loài nhập nội|nhập nội]] bởi con người. Có những loài được nhập nội có chủ ý, ví dụ như loài [[trĩ đỏ]], đã được đưa đi trên toàn thế giới như một loại [[chim để săn bắt]]<ref>{{Chú thích sách |last=Hill |first=David |coauthors=Peter Robertson |year=1988 |title=The pheasant: Ecology, Management, and Conservation |location=Oxford |publisher=BSP Professional |isbn=0-632-02011-3|pages=}}</ref>. Số khác lại mang tính ngẫu nhiên, một ví dụ là sự thành lập của quần thể [[vẹt thầy tu đuôi dài]] (''Myiopsitta monachus'') ở vài thành phố của [[Bắc Mỹ]], sau khi chúng thoát ra khỏi tình trạng nuôi nhốt<ref>{{Chú thích web|lasthọ 1=Spreyer |firsttên 1=Mark F.|coauthorscác tác giả=Enrique H. Bucher|yearnăm=1998|titletiêu đề=Monk Parakeet (Myiopsitta monachus)|work=The Birds of North America|publishernhà xuất bản=Cornell Lab of Ornithology|url=http://bna.birds.cornell.edu/bna/species/322 |doi=10.2173/bna.322}}</ref>. Vài loài khác, bao gồm [[cò ruồi]]<ref>{{chú thích tạp chí |last=Arendt |first=Wayne J. |year=1988 |title=Range Expansion of the Cattle Egret, (''Bubulcus ibis'') in the Greater Caribbean Basin |journal=Colonial Waterbirds |volume=11 |issue=2 |pages=252–62 |doi=10.2307/1521007}}</ref>, [[diều vằn đầu vàng]]<ref>{{Chú thích sách |last=Bierregaard |first=R.O. |year=1994 |chapter=Yellow-headed Caracara |editor=Josep del Hoyo, Andrew Elliott & Jordi Sargatal (eds.) |title=[[Handbook of the Birds of the World]]. Volume 2; New World Vultures to Guineafowl |location=Barcelona |publisher=Lynx Edicions |isbn=84-87334-15-6|pages=}}</ref> và vẹt mào ngực hồng ([[galah]])<ref>{{Chú thích sách |last=Juniper |first=Tony |coauthors=Mike Parr |year=1998 |title=Parrots: A Guide to the Parrots of the World |location=London |publisher=[[Helm Identification Guides|Christopher Helm]] |isbn=0-7136-6933-0|pages=}}</ref> đã mở rộng phân bố một cách tự nhiên bên cạnh khu vực phân bố gốc, bởi các hoạt động nông nghiệp đã tạo nên [[sinh cảnh]] mới thích hợp cho chúng.
 
== Giải phẫu và sinh lý ==
Dòng 343:
 
=== Bộ xương và hệ cơ ===
Chim có [[bộ xương]] với những chiếc xương nhẹ và xốp nhưng chắc<ref name="hueuni">{{Chú thích web| url =http://elearning.hueuni.edu.vn/file.php/106/dongvathoc/htm/c20.htm | titletiêu đề =Lớp Chim (Aves) | accessdatengày truy cập = ngày 21 tháng 12 năm 2008 | work =Giáo trình Động vật học | publishernhà xuất bản =[[Đại học Huế]] |authortác giả 1= Lê Trọng Sơn }}</ref>. Xương chim có những khoang chứa đầy khí, được liên kết với [[hệ hô hấp]]<ref>{{Chú thích web |lasthọ 1=Ehrlich |firsttên 1=Paul R. |coauthorscác tác giả=David S. Dobkin, và Darryl Wheye |titletiêu đề=Adaptations for Flight |url=http://www.stanford.edu/group/stanfordbirds/text/essays/Adaptations.html |yearnăm=1988 |work=Birds of Stanford |publishernhà xuất bản=[[Đại học Stanford|Stanford University]] |accessdatengày truy cập = ngày 13 tháng 12 năm 2007}}</ref>. Xương sọ được nối liền và không có các [[đường khớp sọ]]<ref name = "Gill">{{Chú thích sách |last=Gill |first=Frank |year=1995 |title=Ornithology |publisher=WH Freeman and Co |location=New York |isbn=0-7167-2415-4 |pages=}}</ref>. [[Ổ mắt]] lớn và được ngăn cách bởi một vách xương. Cột sống của chim được chia làm 4 phần: cổ, ngực, chậu và đuôi, với các đốt sống cổ có tính biến đổi cao và đặc biệt linh hoạt; tuy nhiên khả năng cử động chỉ ở các đốt sống ngực trở đi chứ không có ở các đốt sau<ref>{{Chú thích báo |title=The Avian Skeleton |url=http://www.paulnoll.com/Oregon/Birds/Avian-Skeleton.html |work=paulnoll.com |accessdate = ngày 23 tháng 12 năm 2008}}</ref>. Những đốt cuối kết hợp với [[khung chậu]] tạo thành [[khối xương cùng]]<ref name = "Gill" />, làm chỗ dựa vững chắc cho các chi sau<ref name="hueuni"/>. Trừ những loài không biết bay, xương sườn chim dẹt và xương ức phát triển có gờ lưỡi hái nhằm gắn kết với các cơ vận động bay. Hai chi trước của chim đã biến đổi thành cánh<ref>{{Chú thích báo |title=Skeleton of a typical bird |url=http://fsc.fernbank.edu/Birding/skeleton.htm |date= |work=Fernbank Science Center's Ornithology Web |accessdate = ngày 13 tháng 12 năm 2007}}</ref>.
 
Chim có tổng cộng khoảng 175 [[Cơ (sinh học)|cơ]] trên cơ thể<ref>{{Chú thích báo |title=Avian Muscle System |url=http://www.paulnoll.com/Oregon/Birds/Avian-Skeleton.html |work=paulnoll.com |accessdate = ngày 23 tháng 12 năm 2008}}</ref>, trong đó các cơ phát triển liên quan đến những hoạt động như bay (cơ vận động cánh), chạy (cơ đùi và cơ ống chân ở các chim chạy), xù lông (cơ da) hay cử động đầu (cơ cổ)<ref name="hueuni"/>. Cơ lớn nhất là [[cơ ngực]] (cơ hạ cánh) có thể chiếm từ 15-20% [[khối lượng]] cơ thể con chim. Bàn chân của chim không có cơ, tuy nhiên lại có các [[gân]] có thể tự động siết chặt khép quặp các ngón chân quanh cành cây khi chim đậu, giúp chúng bám lâu và chắc trên cành mà không bị mỏi<ref name="hueuni"/>.
 
=== Bài tiết và tiêu hóa ===
Giống như [[động vật bò sát|bò sát]], chim căn bản là loài [[bài tiết]] [[acid uric|axít uric]] (''uricotelic''): cật chim lọc các chất thải gốc nitơ từ máu và bài tiết chúng dưới dạng axít uric thay vì [[urê]] hay [[amoniac]] thông qua [[ống niệu]] trong ruột. Chim không có bóng đái hay niệu đạo mở bên ngoài, nên nước tiểu của chim được thải ra đi kèm với phân tạo thành chất thải nửa rắn<ref>{{Chú thích web |lasthọ 1=Ehrlich |firsttên 1=Paul R. |coauthorscác tác giả=David S. Dobkin, và Darryl Wheye |titletiêu đề=Drinking |url=http://www.stanford.edu/group/stanfordbirds/text/essays/Drinking.html |yearnăm=1988 |work=Birds of Stanford |publishernhà xuất bản=Standford University |accessdatengày truy cập = ngày 13 tháng 12 năm 2007}}</ref><ref>{{chú thích tạp chí |last=Tsahar |first=Ella|coauthors=Carlos Martínez del Rio, Ido Izhaki và Zeev Arad |title=Can birds be ammonotelic? Nitrogen balance and excretion in two frugivores |journal=Journal of Experimental Biology |volume=208 |issue=6 |pages=1025–34 |year=2005 |pmid=15767304 |doi=10.1242/jeb.01495 }}</ref>. Tuy vậy, vẫn có những loài như [[họ Chim ruồi|chim ruồi]] lại thải hầu hết các chất thải [[nitơ]] dưới dạng amoniac<ref>{{chú thích tạp chí |last=Preest |first=Marion R. |coauthors=Carol A. Beuchat |month=Tháng 4 |year=1997 |title=Ammonia excretion by hummingbirds |journal=Nature |volume=386 |issue= |pages=561–62 |doi=10.1038/386561a0}}</ref>. Các loài chim thường thải [[creatin]], hơn là [[creatinin]] như ở [[lớp Thú|động vật có vú]]<ref name = "Gill" />. Loại chất này, cũng như các chất thải khác của quá trình tiêu hóa, được thải ra từ [[huyệt (giải phẫu)|huyệt]] của chim<ref>{{chú thích tạp chí |last=Mora |first=J. |coauthors=J. Martuscelli, Juana Ortiz-Pineda, và G. Soberón |year=1965 |title=The Regulation of Urea-Biosynthesis Enzymes in Vertebrates |journal=[[Biochemical Journal]] |volume=96 |pages=28–35 |pmid=14343146 |url=http://www.biochemj.org/bj/096/0028/0960028.pdf|format=PDF}}</ref><ref>{{chú thích tạp chí |last=Packard |first=Gary C.|year=1966 |title=The Influence of Ambient Temperature and Aridity on Modes of Reproduction and Excretion of Amniote Vertebrates |journal=[[The American Naturalist]] |volume=100 |issue=916 |pages=667–82 |url=http://www.jstor.org/pss/2459303 |doi=10.1086/282459}}</ref>. Huyệt chim là một ống mở đa chức năng, từ tống các chất thải ra ngoài tới [[quan hệ tình dục|giao phối]] và [[đẻ trứng]]. Ngoài ra, nhiều loài chim cũng ợ (đưa quay trở lại đẳng miệng) các thức ăn chưa tiêu hóa còn dư (''pellet'')<ref>{{chú thích tạp chí |last=Balgooyen |first=Thomas G. |year=1971 |title=Pellet Regurgitation by Captive Sparrow Hawks (''Falco sparverius'') |journal=[[Condor (tạp chí)|Condor]] |volume=73 |issue=3 |pages=382–85 |doi=10.2307/1365774 |url=http://elibrary.unm.edu/sora/Condor/files/issues/v073n03/p0382-p0385.pdf|format=PDF}}</ref>. [[Hệ tiêu hóa]] chim có đặc điểm độc nhất, với bộ phận [[diều (giải phẫu)|diều]] để lưu trữ thức ăn và [[mề]], chứa các hòn đá được chim nuốt, có khả năng nghiền thức ăn thay thế cho bộ răng chúng không có<ref>{{chú thích tạp chí |last=Gionfriddo |first=James P. |coauthors=Louis B. Best |month=Tháng 2|year=1995 |title=Grit Use by House Sparrows: Effects of Diet and Grit Size |journal=Condor |volume=97 |issue=1 |pages=57–67 |doi=10.2307/1368983 |url=http://elibrary.unm.edu/sora/Condor/files/issues/v097n01/p0057-p0067.pdf|format=PDF}}</ref>. Nhiều loài chim thích nghi cao với việc tiêu hóa nhanh giúp cho hoạt động bay<ref name = "Attenborough">{{Chú thích sách |last=Attenborough |first=David |authorlink=David Attenborough |year=1998 |title=[[The Life of Birds]] |location=Princeton |publisher=Princeton University Press |isbn=0-691-01633-X|pages=}}</ref>. Một số loài chim cũng thích nghi bằng cách sử dụng [[protein]] từ nhiều bộ phận của cơ thể. để cung cấp thêm năng lượng trong quá trình [[di trú]]<ref name = "Battley">{{chú thích tạp chí |last=Battley |first=Phil F. |coauthors=Theunis Piersma, Maurine W. Dietz ''et als.'' |month=January |year=2000 |title=Empirical evidence for differential organ reductions during trans-oceanic bird flight |journal=[[Proceedings of the Royal Society]] B |volume=267 |issue=1439 |pages=191–5 |doi=10.1098/rspb.2000.0986 |pmid=10687826}} (Erratum in ''Proceedings of the Royal Society B'' '''267'''(1461):2567.)</ref>.
 
=== Hệ hô hấp và tuần hoàn ===
Dòng 361:
{{xem thêm|Thị giác của chim}}
[[Tập tin:Blue Tit aka.jpg|nhỏ|200px|trái|Ở chim [[sẻ ngô xanh]] (''Cyanistes caeruleus'', tên cũ ''Parus caeruleus''), con trống có một đốm trên đầu phản chiếu tia cực tím, được chúng phô bày trước con mái qua tư thế xù lông ở phía gáy<ref>{{chú thích tạp chí |last=Andersson|first=S.|coauthors=J. Ornborg & M. Andersson |title=Ultraviolet sexual dimorphism and assortative mating in blue tits|journal=Proceeding of the Royal Society B |year=1998 |volume=265 |issue=1395 |pages=445–50 |doi=10.1098/rspb.1998.0315}}</ref>.]]
Hệ thần kinh của chim phụ thuộc nhiều vào kích thước cơ thể<ref name = "Gill" />. Phần phát triển nhất của não điều khiển các chức năng liên quan đến hoạt động bay, trong khi [[tiểu não]] phối hợp sự cử động và [[đại não]] thì điều khiển các kiểu tập tính, tìm đường, giao phối và làm tổ. Đa phần các loài chim đều có [[khứu giác]] kém, ngoại trừ một số trường hợp nổi bật như [[Chim Kiwi|kiwi]]<ref>{{chú thích tạp chí |last=Sales |first=James |year=2005 |title=The endangered kiwi: a review |journal=Folia Zoologica |volume=54 |issue=1–2 |pages=1–20 |url=http://www.ivb.cz/folia/54/1-2/01-20.pdf|format=PDF}}</ref>, [[kền kền Tân Thế giới]]<ref name="Avian Sense of Smell">{{Chú thích web |lasthọ 1=Ehrlich |firsttên 1=Paul R. |coauthorscác tác giả=David S. Dobkin, và Darryl Wheye |titletiêu đề=The Avian Sense of Smell |url=http://www.stanford.edu/group/stanfordbirds/text/essays/Avian_Sense.html |yearnăm=1988 |work=Birds of Stanford |publishernhà xuất bản=Standford University |accessdatengày truy cập = ngày 13 tháng 12 năm 2007}}</ref> và bộ Chim báo bão ([[Bộ Hải âu|Procellariiformes]])<ref>{{chú thích tạp chí |last=Lequette |first=Benoit |coauthors=Christophe Verheyden, Pierre Jouventin |month=Tháng 8|year=1989 |title=Olfaction in Subantarctic seabirds: Its phylogenetic and ecological significance |journal=The Condor |volume=91 |issue=3 |pages=732–35 |doi=10.2307/1368131 |url=http://elibrary.unm.edu/sora/Condor/files/issues/v091n03/p0732-p0735.pdf|format=PDF}}</ref>. Ngược lại, thị giác của chúng thường phát triển ở mức độ cao. Các loài chim ở nước có [[thủy tinh thể]] linh hoạt đặc biệt, cho phép thích nghi với việc nhìn trong nước lẫn không khí<ref name = "Gill" />. Một số loài trong mắt còn có hai [[vùng hoàng điểm]] (''fovea''). Các loài chim có khả năng nhận biết bốn loại nguồn sáng (''tetrachromacy''), có các [[tế bào hình nón]] nhạy cảm với [[tử ngoại|tia cực tím]] bên cạnh các dải màu [[đỏ]], [[xanh lam]] và [[xanh lá cây]]<ref>{{chú thích tạp chí |last=Wilkie |first=Susan E. |coauthors=Peter M. A. M. Vissers, Debipriya Das ''et al.'' |year=1998 |title=The molecular basis for UV vision in birds: spectral characteristics, cDNA sequence and retinal localization of the UV-sensitive visual pigment of the budgerigar (''Melopsittacus undulatus'') |journal=[[Biochemical Journal]] |volume=330 |pages=541–47 |pmid=9461554}}</ref>. Điều này cho phép chúng quan sát được các tia cực tím (UV), có liên quan trong quá trình ve vãn. Nhiều loài chim có những bộ lông sặc sỡ trong dải tia cực tím mà mắt người không nhìn thấy; một số loài mà hai giới tính tưởng như giống nhau với mắt thường, nhưng lại khác nhau dưới tia cực tím khi phản chiếu những vết đốm trên bộ lông của chúng. Tia cực tím còn được sử dụng trong việc kiếm ăn - một số loài [[Chi Cắt|cắt]] tìm kiếm con mồi là những loài [[bộ Gặm nhấm|gặm nhấm]] bằng cách xác định tia UV phản chiếu từ dấu nước tiểu trên mặt đất<ref>{{chú thích tạp chí |last=Viitala |first=Jussi |coauthors=Erkki Korplmäki, Pälvl Palokangas & Minna Koivula |year=1995 |journal=Nature |volume=373 |issue=6513 |pages=425–27 |title=Attraction of kestrels to vole scent marks visible in ultraviolet light |doi=10.1038/373425a0}}</ref>. [[Mí mắt]] của chim không được sử dụng để nháy mắt, thay vì thế chúng dùng một mí mắt thứ ba di chuyển theo chiều ngang, gọi là [[màng nháy]]<ref>{{chú thích tạp chí |last=Williams |first=David L. |coauthors=Edmund Flach |month=Tháng 3|year=2003 |title=Symblepharon with aberrant protrusion of the nictitating membrane in the snowy owl (''Nyctea scandiaca'') |journal=Veterinary Ophthalmology |volume=6 |issue=1 |pages=11–13 |doi=10.1046/j.1463-5224.2003.00250.x |pmid=12641836}}</ref>. Màng nháy cũng bao phủ mắt và có vai trò như một loại [[kính áp tròng]] ở nhiều loài chim sống ở nước<ref name = "Gill" />. Võng mạc chim có một hệ thống cung cấp máu hình quạt gọi là lược (''pecten'')<ref name = "Gill" />. Hầu hết chim không thể di chuyển mắt của chúng, trừ một số ngoại lệ, như [[cốc đế|chim cốc đế]]<ref>{{chú thích tạp chí |last=White |first=Craig R. |coauthors=Norman Day, Patrick J. Butler, Graham R. Martin |month=Tháng 7|year=2007 |title=Vision and Foraging in Cormorants: More like Herons than Hawks? |journal=PLoS ONE |volume=2 |issue=7 |pages=e639 |doi=10.1371/journal.pone.0000639 |pmid=17653266}}</ref>. Những loài chim với mắt ở hai bên đầu có tầm nhìn rộng, còn những loài có mắt ở trước mặt, như [[bộ Cú|cú]], có [[thị giác hai mắt]] (''binocular vision'') và có thể ước tính được chiều sâu của tầm nhìn<ref>{{chú thích tạp chí |last=Martin |first=Graham R. |coauthors=Gadi Katzir |year=1999 |title=Visual fields in short-toed eagles, ''Circaetus gallicus'' (Accipitridae), and the function of binocularity in birds |journal=Brain, Behaviour and Evolution |volume=53 |issue=2 |pages=55–66 |doi=10.1159/000006582 |pmid= 9933782}}</ref>. Chim không có [[tai ngoài]] nhưng [[tai]] chúng được bao phủ bởi lông vũ, dù ở một số chim, như các chi [[bộ Cú|cú]] ''[[Asio]]'', ''[[Bubo]]'' và ''[[Otus]]'', lông vũ tạo nên những búi mà tương tự như tai. Tai trong có một ốc tai, nhưng không có dạng xoắn như các loài thú có vú<ref>{{chú thích tạp chí |last=Saito |first=Nozomu |year=1978 |title=Physiology and anatomy of avian ear |journal=The Journal of the Acoustical Society of America |volume=64 |issue=S1 |pages=S3 |doi=10.1121/1.2004193}}</ref>. Tai chim có thể nghe được âm thanh có [[tần số âm thanh|tần số]] gần với tai người nhưng lại hơn người nhiều lần về khả năng phân biệt [[cường độ âm thanh]]. So với các động vật xương sống ở cạn khác, xúc giác chim kém phát triển<ref name="hueuni"/>.
 
=== Chất hóa học ===
Dòng 369:
{{chính|Lông vũ|lông bay}}
[[Tập tin:African Scops owl.jpg|nhỏ|200px|trái|Bộ lông của [[cú mèo châu Phi]] cho phép loài này đồng hóa với môi trường xung quanh.]]
[[Lông vũ]] là đặc điểm duy nhất chỉ có ở các loài chim. Nó hỗ trợ cho việc bay, tạo ra một lớp cách ly giúp [[điều hòa thân nhiệt]], ngoài ra còn được sử dụng để phô bày, [[ngụy trang]] hay làm tín hiệu. Có một số loại lông vũ, được sử dụng cho từng mục đích. Lông vũ mọc lên từ lớp biểu bì của da, chỉ ở những vùng đặc biệt gọi là vùng lông (''pterylae''). Kiểu phân bố của những vùng lông (''pterylosis'') được ứng dụng trong phân loại và hệ thống học. Sự sắp xếp và vẻ ngoài của lông vũ trên cơ thể, gọi là [[bộ lông vũ]] (''plumage''), có thể khác nhau trong loài dựa trên tuổi, địa vị bầy đàn<ref>{{chú thích tạp chí |last=Belthoff |first=James R. |coauthors=Alfred M. Dufty, Jr., Sidney A. Gauthreaux, Jr. |month=Tháng 8 |year=1994 |title=Plumage Variation, Plasma Steroids and Social Dominance in Male House Finches |journal=The Condor |volume=96 |issue=3 |pages=614–25 |doi=10.2307/1369464}}</ref> và [[lưỡng hình giới tính|giới tính]]<ref>{{Chú thích web|lasthọ 1=Guthrie| firsttên 1=R. Dale|titletiêu đề=How We Use and Show Our Social Organs |work=Body Hot Spots: The Anatomy of Human Social Organs and Behavior |url=http://employees.csbsju.edu/lmealey/hotspots/chapter03.htm |accessdatengày truy cập = ngày 19 tháng 10 năm 2007}}{{dead link}}</ref>.
 
Các loài chim [[thay lông]] theo định kỳ; bộ lông thông thường của một con chim mà đã thay sau mùa sinh sản gọi là bộ lông "không sinh sản" (''non-breeding'') - hay theo thuật ngữ Humphrey-Parkes là bộ lông "cơ bản" (''basic''); còn bộ lông khi sinh sản hay các dạng khác của bộ lông cơ bản gọi theo Humphrey-Parkes là bộ lông "luân phiên" (''alternate'')<ref>{{chú thích tạp chí |last=Humphrey |first=Philip S. |coauthors=Kenneth C. Parkes |year=1959 |title=An approach to the study of molts and plumages |journal=The Auk |volume=76 |pages=1–31 |url=http://elibrary.unm.edu/sora/Auk/v076n01/p0001-p0031.pdf |doi=10.2307/3677029|format=PDF}}</ref>. Việc thay (rụng) lông là thường niên ở hầu hết các loài chim, dù có những loài thay hai lần trong năm, hoặc các loài chim săn mồi lớn có thể chỉ thay lông một lần duy nhất cho vài năm. Có các kiểu thay lông khác nhau giữa các loài. Ở các loài [[bộ Sẻ|chim sẻ]], [[lông bay]] (lông trên cánh và đuôi giúp cho việc bay) được thay thế một lần trong một thời gian với những chiếc lông vũ sơ cấp trong cùng sẽ thay đầu tiên. Sau khi lông sơ cấp được thay thế lần thứ năm hay thứ sáu, những chiếc lông bậc ba ngoài cùng bắt đầu rụng, sau đó đến lông thứ cấp và cuối cùng quá trình này lại đi tới những chiếc lông phía ngoài (rụng lông ly tâm). Những lông bao (''tetrix'') lớn được rụng lẫn đồng thời với lông sơ cấp<ref name="pettingill">{{Chú thích sách|author=Pettingill Jr. OS|year=1970|title=Ornithology in Laboratory and Field.|isbn=808716093|publisher=Burgess Publishing Co.}}</ref>. Một số nhỏ các loài, như [[vịt]] và [[ngỗng]], lại có thể rụng tất cả các lông bay cùng lúc, khiến chúng tạm thời không bay được<ref name="debeeretal">de Beer SJ, Lockwood GM, Raijmakers JHFS, Raijmakers JMH, Scott WA, Oschadleus HD, Underhill LG (2001). [http://web.uct.ac.za/depts/stats/adu/ringmanual.htm SAFRING Bird Ringing Manual.] SAFRING.</ref> Theo một quy luật chung, lông đuôi lại rụng và thay khởi đầu từ những cặp trong cùng<ref name="pettingill" />. Dù thế, việc rung lông ly tâm cũng tìm thấy ở các loài thuộc [[họ Trĩ]]<ref>{{chú thích tạp chí |last=Gargallo|first=Gabriel|year=1994|month= |title=Flight Feather Moult in the Red-Necked Nightjar ''Caprimulgus ruficollis'' |journal=Journal of Avian Biology |volume=25|issue=2|pages=119–24 |doi=10.2307/3677029}}</ref>. Bên cạnh đó, sự rụng lông ly tâm ở đuôi có sự thay đổi ở các loài chim [[gõ kiến]] và [[họ Đuôi cứng]], khi khởi đầu với những cặp lông trong cùng thứ hai và kết thúc với cặp lông giữa, và vẫn giữa một cặp lông với chức năng leo trèo<ref name="pettingill" /><ref>{{chú thích tạp chí |last=Mayr |first=Ernst |coauthors=Margaret Mayr |year=1954|title=The tail molt of small owls |journal=The Auk |volume=71 |issue=2 |pages=172–78 |url=http://elibrary.unm.edu/sora/Auk/v071n02/p0172-p0178.pdf|format=PDF}}</ref>.[[Tập tin:Red Lory (Eos bornea)-6.jpg|upright|phải|nhỏ|[[Vẹt Lory đỏ]] (''Eos bornea'') đang rỉa lông.]] Ở các loài sẻ, kiểu thay lông chung là lông cánh sơ cấp thay trước, lông thứ cấp thay sau, còn đuôi thì khởi đầu với những lông ở giữa<ref>{{Chú thích web|firsttên 1=Robert B.|lasthọ 1=Payne|titletiêu đề=Birds of the World, Biology 532|url=http://www.ummz.umich.edu/birds/resources/families_otw.html|publishernhà xuất bản=Bird Division, University of Michigan Museum of Zoology|accessdatengày truy cập = ngày 20 tháng 10 năm 2007}}</ref>. Trước khi xây tổ, đa phần các con chim mái đều rụng phần lông gần bụng tạo thành một "vết ấp" (''brood patch''). Phần da ở đấy sẽ được cung cấp tốt từ các mạch máu và hỗ trợ chim trong việc [[ấp trứng]]<ref>{{chú thích tạp chí |last=Turner |first=J. Scott |year=1997 |title=On the thermal capacity of a bird's egg warmed by a brood patch |journal=Physiological Zoology |volume=70 |issue=4 |pages=470–80 |doi=10.1086/515854 |pmid=9237308}}</ref>.
 
Lông vũ đòi hỏi được giữ gìn và chim thường dành khoảng 9% thời gian mỗi ngày dành cho việc rỉa hay chải lông<ref>{{chú thích tạp chí |last=Walther |first=Bruno A. |coauthors=Dale H. Clayton |year=2005 |title=Elaborate ornaments are costly to maintain: evidence for high maintenance handicaps |journal=Behavioural Ecology |volume=16 |issue=1 |pages=89–95 |doi=10.1093/beheco/arh135}}</ref>. Chim dùng mỏ để chải đi các hạt nhỏ từ bên ngoài, đồng thời bôi lên đó một loại [[sáp]] tiết ra từ [[tuyến phao câu]]; loại sáp này sẽ giúp giữ gìn tính linh hoạt của lông và là một tác nhân chống vi sinh vật, ngăn chặn sự phát triển của những vi khuẩn làm giảm chất lượng lông<ref>{{chú thích tạp chí |last=Shawkey |first=Matthew D. |coauthors=Shawkey, Shreekumar R. Pillai, Geoffrey E. Hill |year=2003 |title=Chemical warfare? Effects of uropygial oil on feather-degrading bacteria |journal=[[Journal of Avian Biology]] |volume=34 |issue=4 |pages=345–49 |doi=10.1111/j.0908-8857.2003.03193.x}}</ref>. Ngoài ra chất này còn giúp lông không thấm nước và cung cấp [[vitamin D]] (chứa [[ergosterol]] biến đổi thành vitamin D dưới ánh mặt trời)<ref name="hueuni"/>. Bên cạnh đó, một số chim còn có hành động chà kiến (hay côn trùng khác) lên bộ lông của chúng, nhằm lấy [[axit formic|axít formic]] tiết ra từ kiến, có vai trò tiêu diệt những [[sinh vật ký sinh]] trên lông<ref>{{chú thích tạp chí |last=Ehrlich |first=Paul R. |coauthors=David S. Dobkin, Darryl Wheye |year=1986 |title=The Adaptive Significance of Anting |journal=The Auk |volume=103 |issue=4 |pages=835 |url=http://elibrary.unm.edu/sora/Auk/v103n04/p0835-p0835.pdf|format=PDF}}</ref>.
Dòng 377:
=== Mỏ, chân và vảy ===
{{chính|Mỏ chim|Kiểu ngón#Chim}}
[[Mỏ chim|Mỏ]] là một cấu trúc bên ngoài của chim, được sử dụng cho việc ăn và nhiều mục đích khác. Trong mỏ không có răng, mỏ bao gồm 2 phần, phần hàm trên được bao phủ bởi một bao vỏ sừng (''rhamphotheca''), cấu tạo từ keratin. Giữa phần trên mỏ có hai [[lỗ mũi]], ăn thông với hệ hô hấp. Ở một số loài, mỏ và lỗ mũi được bao bởi một phần mô mềm, sáp, được gọi là da gốc mỏ (''cere'')<ref name=petedubeak>{{Chú thích web| url =http://www.peteducation.com/article.cfm?c=15+1829&aid=2752 | titletiêu đề =Bird Beaks: Anatomy, Care, and Diseases | accessdatengày truy cập = ngày 26 tháng 12 năm 2008 | authortác giả 1 =Foster & Smith | publishernhà xuất bản =PetEducation.com}}</ref>.
 
[[Tập tin:Turkey Feet.jpg|nhỏ|trái|Chân với cựa của một con [[gà tây]].]]
Bàn chân chim được bao phủ bởi vảy và có các ngón chân với móng vuốt. Đa phần các loài chim đều có 4 ngón, được chia thành 5 [[kiểu ngón|kiểu sắp xếp]] (''dactyly'') chính, bao gồm: ''anisodactyl'' (ngón không đều), ''zygodactyl'' (ngón kiểu chân trèo), ''heterodactyl'' (khác ngón), ''syndactyl'' (dính ngón) và ''pamprodactyl'' (ngón nhọn)<ref>{{Chú thích sách |author=Proctor, N.S. và P.J. Lynch |title=Manual of ornithology: avian structure and function |year=1993 |publisher=Yale Univ. Press, New Haven}}</ref>. Ở nhiều loài chim, chân có màng, và cũng có các loại: có nửa màng (''semipalmate''), có màng hoàn toàn (''totipalmate''), có màng kiểu chân vịt và có thùy<ref>{{Chú thích web |url=http://people.eku.edu/ritchisong/birdfeet.html |lasthọ 1=Ritchison| firsttên 1=Gary |titletiêu đề=Bird feet |accessdatengày truy cập = ngày 26 tháng 12 năm 2008 |work= |publishernhà xuất bản=Eastern Kentucky University}}</ref>. Mỏ cùng móng vuốt đều không ngừng phát triển về kích cỡ<ref name=petedubeak/>. Kiểu chân và mỏ của mỗi loài nhiều khi rất khác nhau, phụ thuộc vào lối sống và thức ăn của chúng. Ở gà trống và một số loài chim khác, chân có phần sừng cứng mọc lên, được gọi là [[wikt:cựa|cựa]].
 
Giống các bộ phận mỏ, vuốt và cựa, vảy chim là sản phẩm của da<ref name="hueuni"/>, được tạo thành từ cùng một loại [[keratin]]. Vảy được tìm thấy chủ yếu ở ngón chân và bàn chân, nhưng cũng có thể xuất hiện ở mắt cá chân một vài loài. Hầu hết ở các loài chim, vảy không che phủ đáng kể, ngoại trừ trường hợp gõ kiến và đuôi cứng. Vảy của chim được cho là [[tương đồng]] với vảy của động vật có vú và bò sát<ref>{{Chú thích sách |last=Lucas |first=Alfred M. |year=1972 |title=Avian Anatomy - integument |location=East Lansing, Michigan, USA |publisher=USDA Avian Anatomy Project, Michigan State University |pages=67, 344, 394–601}}</ref>.
Dòng 399:
Leo trèo là kiểu di chuyển nguyên thủy của nhiều loài chim tiền sử, ví dụ như ''[[Archaeopteryx]]'' sử dụng móng vuốt để leo lên cây sau đó thả mình lướt xuống đất<ref name="Feduccia1999">{{Chú thích sách |author=Feduccia, A. |title=The Origin and Evolution of Birds |year=1999 |publisher=Yale University Press |isbn=9780300078619 |url=http://yalepress.yale.edu/book.asp?isbn=9780300078619 }}</ref>. Trải qua thời gian, chân của các loại chim leo trèo nguyên thủy (với 3 ngón phía trước, 1 ngón phía sau) được biến đổi thành chân của các chim leo trèo hiện đại<ref name="hueuni"/>, với móng khỏe cùng 2 ngón trước và 2 ngón sau ([[kiểu ngón]] ''zygodactyly''). Số loài chim leo trèo còn tồn tại không nhiều, bao gồm các loài thuộc các họ [[Gõ kiến]], [[Họ Đuôi cứng|Đuôi cứng]], [[Họ Trèo cây|Trèo cây]] cũng như [[bộ Vẹt|vẹt]]<ref>{{Chú thích sách |title=Read & Understand Nonfiction: Nonfiction, Grades 4-6 |last=White |first= |authorlink= |coauthors=Jill Norris, Evan-Moor Educational Publishers, Marilyn Evans, Evan-Moor Corporation |year=1999 |publisher=Evan-Moor Educational Publishers |location= |isbn=1557997403 |pages=113 }}</ref> và một số loài khác. Các loài này đều có cách leo trèo riêng của mình, một số loài như vẹt sử dụng mỏ như một chân thứ ba để trèo cây<ref>{{Chú thích báo |title=Climbing birds and mammals |url=http://www.britannica.com/EBchecked/topic/345861/locomotion/48456/Climbing-birds-and-mammals |accessdate = ngày 25 tháng 12 năm 2008 |work =[[Encyclopædia Britannica]] }}</ref>. Chim gõ kiến dùng móng sắc để bám và dùng đuôi cứng như một điểm tựa, di chuyển trên các thân cây<ref name = "HBW">Winkler, Hans & Christie, David A. (2002), "Family Picidae (Woodpeckers)" ''in'' del Hoyo, J.; Elliot, A. & Sargatal, J. (biên tập). (2002). ''[[Handbook of the Birds of the World]]. Volume 7: Jacamars to Woodpeckers.'' Lynx Edicions. ISBN 84-87334-37-7</ref>.
Các loài chim sống gần nước có các kiểu di chuyển khác nhau. Những loài bơi lặn giỏi có những đặc điểm thích nghi như [[chân màng|chân có màng]] hay bộ lông không thấm nước<ref name=birdaqua>{{Chú thích web| url =http://www.highbeam.com/doc/1G2-3409400032.html | titletiêu đề =Birds, Aquatic | accessdatengày truy cập = ngày 26 tháng 12 năm 2008 |lasthọ 1 =Yeh | firsttên 1 =Jennifer | yearnăm =2008 | work =Water: Science and Issues}}</ref>. Chúng được chia làm hai loại dựa trên cách thức bơi<ref>{{Chú thích sách |title=The Grebes: Podicipedidae |last=Fjeldså |first=Jon |year=2004 |publisher=Oxford University Press |location= |isbn=0198500645 |pages=10-11}}</ref>: nhờ chân, tức dùng chân như một mái chèo để tạo sức đẩy, ví dụ [[họ Cốc|chim cốc]], [[chim lặn]], [[gaviidae|gavia]] và [[họ Vịt]], và nhờ cánh - chủ yếu là các loài sống ở biển, tiêu biểu là [[chim cánh cụt]], [[chim anca]] hay [[hải âu pêtren lặn]]. Các loài chim lặn nhờ cánh nhìn chung thường nhanh hơn các loài sử dụng chân<ref name=autogenerated1>Schreiber, Elizabeth A. & Burger, Joanne.(2001.) ''Biology of Marine Birds'', Boca Raton:CRC Press, ISBN 0-8493-9882-7</ref>. Tuy nhiên, dù dùng chân hay dùng cánh thì đều khiến các loài này bị hạn chế ở các cách di chuyển khác, như bay hay di chuyển trên mặt đất. Các loài chim cánh cụt không biết bay có thể là sinh vật thích nghi với nước nhất trong số các loài chim bơi lặn<ref name=birdaqua/>, đặc biệt [[chim cánh cụt Gentoo]] (''Pygoscelis papua'') là loài chim bơi nhanh nhất, với tốc độ đạt {{convert|36|km/h|mph|0|abbr=on}}<ref>{{Chú thích web| url =http://www.bbc.co.uk/nature/life/Gentoo_Penguin | titletiêu đề =Gentoo penguin | accessdatengày truy cập = ngày 26 tháng 12 năm 2008 | work =BBC }}
</ref>. Bên cạnh đó, còn có các loài lặn bằng cách lao thẳng từ trên cao xuyên qua làn nước để bắt mồi, ví dụ [[chim điên]], [[chim điên|ó biển]], [[bồ nông nâu]] và một số [[nhạn biển]]. Những loài chim như [[hồng hạc]], [[Bộ Sếu|sếu]], [[diệc]], [[cò]]... và nhỏ hơn như [[họ Dẽ|dẽ]] hay [[choi choi]] là những loài chim lội nước, với đôi chân dài, mảnh, có thể đi qua nước dễ dàng mà cơ thể không bị ướt, dùng chân hay mỏ để kiếm thức ăn<ref name=birdaqua/>.
 
[[Tập tin:Manchots empereurs tobogannent.JPG|nhỏ|trái|200px|[[Chim cánh cụt hoàng đế]] (''Aptenodytes forsteri'') lướt mình trên tuyết.]]
Hầu hết các loài chim đều có thể di chuyển trên mặt đất qua hai cách: đi và chạy<ref name=encarta>{{Chú thích web| url =http://encarta.msn.com/text_761552516__1/Bird.html | titletiêu đề =Bird | accessdatengày truy cập = ngày 26 tháng 12 năm 2008 | lasthọ 1 =Garrett | firsttên 1 =Kimball L. | work =[[Encarta]] | publishernhà xuất bản =[[Microsoft Corporation]]}}</ref>, với khả năng khác nhau ở mỗi loài. Tuy nhiên, cũng có những ngoại lệ như [[họ Yến|chim yến]], khi không có khả năng đậu hay chạy do đôi chân quá yếu ớt, mà chỉ có thể dùng chân bám lên các bề mặt thẳng; hay hầu hết các loài [[chim lặn gavia]] cũng không thể đi đứng bình thường trên mặt đất do kết cấu đôi chân chỉ phù hợp với việc bơi lặn<ref>{{Chú thích web| url =http://encarta.msn.com/encyclopedia_761577802/Loon.html | titletiêu đề =Loon | accessdatengày truy cập = ngày 26 tháng 12 năm 2008 |work =[[Encarta]] | publishernhà xuất bản =[[Microsoft Corporation]]}}</ref>. Ngược lại, có những chim như [[bộ Đà điểu]], [[tinamou]], [[họ Ô tác|ô tác]], [[gà maleo]] cũng như nhiều loài thuộc [[bộ Gà]]<ref name=encarta/>, đã phát triển kết cấu chân thích hợp, là đại diện của những loài chim di chuyển tốt trên mặt đất. Các loài chim ở nước thường di chuyển trên mặt đất rất khó khăn; dù thế, để di chuyển nhanh hơn, chim cánh cụt lại có một phương thức đặc biệt, đó là "lướt ván" trên phần bụng của chúng, sử dụng cánh và chân để đẩy thân mình lướt đi trên băng tuyết<ref>{{Chú thích sách |title=Penguins |last=Stefoff |first=Rebecca |year=2005 |publisher=Marshall Cavendish |isbn=0761417435 |pages=84 }}</ref>.
 
=== Di truyền ===
Dòng 418:
 
[[Tập tin:Dermanyssus-gallinae.jpg|nhỏ|200px|''[[Dermanyssus gallinae]]'', một con rận ký sinh ở gà.]]
Ít nhất 2.500 loài [[bệnh ghẻ|ghẻ]] thuộc 40 [[họ (sinh học)|họ]]<ref name="GR">{{en}}{{Chú thích web|url=http://people.eku.edu/ritchisong/birdnests.html|editor=Department of Biological Sciences Eastern Kentucky University|firsttên 1=Gary |lasthọ 1=Ritchison|titletiêu đề=Avian Reproduction: Nests}}</ref> sống gắn với các loài chim, từ [[tổ chim]], lông, thậm chí mỏ chim như một số loài ghẻ ký sinh trên [[họ Chim ruồi|chim ruồi]]. Các loài ghẻ này có thể chỉ đơn thuần là ký sinh vô hại hoặc có thể gây ngứa cho động vật chủ, thậm chí là ký sinh có hại như các loài thuộc chi ''[[Dermanyssus]]'' và ''[[Ornithonyssus]]''. Tất cả các loài chim đều bị ảnh hưởng bởi sinh vật ký sinh, ngay cả [[chim cánh cụt]]<ref name="GR"/> cũng có [[Ve (ký sinh)|ve]] ký sinh trên cơ thể. Đời sống các loài ve tất nhiên phụ thuộc vào từng giống chim cụ thể; tuy thế, [[ấu trùng]] ve thường sống trong tổ chim. Các loài ký sinh này có chu kỳ sinh sản ngắn và có thể sinh sôi rất nhanh chóng. Một số loài ký sinh sống bằng lớp da chết của chim, số khác như các loài ký sinh ở chim ruồi thì được mang từ bông hoa này sang bông khoa khác và sống bằng [[mật hoa]]. Trong các tổ chim, người ta thậm chí còn phát hiện thấy các loài ký sinh nhỏ sống bám vào các loài ký sinh lớn hơn<ref name="GR"/>.
 
Một số lớn các loài ký sinh có thể gây hại cho chim non hoặc gà con<ref name="GR"/>. Tuy thế, một số nghiên cứu cho thấy sự [[hội sinh]] này không phải chỉ có hại cho chim<ref name="GR"/>. Có khá nhiều nghiên cứu về các tương tác phức tạp giữa sinh vật ký sinh và chim, và nhiều yếu tố đã được tìm hiểu. Và các nghiên cứu cho thấy việc đưa ra các quy tắc đơn giản trong trường hợp này là không dễ dàng.