Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Bùi Dzinh”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi |
|||
Dòng 9:
|thuộc= [[Hình: Flag of the South Vietnamese Army.jpg|22px]] [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa|Quân lực VNCH]]
|năm phục vụ= [[1950]]-[[1965]]
|cấp bậc= [[Hình: DaiTaQLVNCHlucquan1963.gif|
|đơn vị= [[Hình: ARVN 23rd Division Insignia.svg|20px]] [[Sư đoàn 23 Bộ binh Quân lực Việt Nam Cộng hòa|SĐ 16 Khinh chiến]]<ref>Sư đoàn 15 Khinh chiến là tiền thân của Sư đoàn 23 Bộ binh sau này.</ref><br>[[ ]] [[Sư đoàn 21 Bộ binh Quân lực Việt Nam Cộng hòa|Sư đoàn 21 Bộ binh]]<br>[[Hình: SuDoan9.jpg|20px]] [[Sư đoàn 9 Bộ binh Quân lực Việt Nam Cộng hòa|Sư đoàn 9 Bộ binh]]<br>[[Hình: QD IV VNCH.jpg|20px]] [[Quân đoàn IV (Việt Nam Cộng hòa)|Vùng 4 Chiến thuật]]
|chỉ huy= [[Hình: Flag of the Vietnamese National Army.svg|
|tham chiến= [[Chiến tranh Việt Nam]]
|huy chương=
Dòng 23:
===Quân đội Quốc gia Việt Nam===
Tháng 9 năm 1950, thi hành lệnh động viên, ông nhập ngũ vào Quân đội Quốc gia.<ref>Thời điểm này Quân đội Quốc gia vẫn còn là thành phần trong Quân đội Liên hiệp Pháp. Tháng 12 năm 1950 mới chính thức được thành lập.</ref> Ông được theo học khóa 3 Trần Hưng Đạo tại trường Võ bị Liên quân Đà Lạt,<ref>Năm 1959 trường Võ bị Liên quân được đổi tên thành trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt.</ref> khai giảng ngày 1 tháng 10 năm 1950.<ref>
Giữa năm 1952, sau khi Quân đội Quốc gia thành lập Bộ Tổng Tham mưu, ông được cử đi học lớp Tham mưu trung cấp tại trường Tham mưu ở Paris (École Militaire Paris), Pháp. Đầu năm 1953, mãn khóa học từ Pháp về nước, ông được thăng cấp [[Trung úy]] chuyển vào Nam phục vụ tại Phòng 3 Đệ nhất Quân khu, dưới quyền Đại tá [[Lê Văn Tỵ]].<ref>Đệ nhất Quân khu được thành lập ngày 1 tháng 7 năm 1952, bản doanh đặt tại Sài Gòn. Tư lệnh đầu tiên là Đại tá Lê Văn Tỵ. Ngày 1 tháng 3 năm 1959 cải danh thành Quân đoàn III và Vùng 3 chiến thuật do Trung tướng [[Thái Quang Hoàng]] làm Tư lệnh đầu tiên.</ref> Năm 1954, sau ngày ký Hiệp định Genève (20/7/1954), ông được thăng cấp [[Đại úy]] tại nhiệm.
Dòng 30:
Đầu tháng 11 năm 1955, chuyển biên chế sang phục vụ Quân đội Việt Nam Cộng hòa (được cải danh từ Quân đội Quốc gia), ông được cử làm Tiểu khu trưởng Tiểu khu Nam-Ngãi.<ref>Tiểu khu Nam-Ngãi gồm 2 tỉnh thuộc Nam Trung phần Việt Nam là Quảng Nam và Quảng Ngãi.</ref> Ông đã thành công trong việc kêu gọi hai ông Nguyễn Đình Thiệp Chỉ huy quân sự và Phạm Thái là Chính trị viên của Lực lượng vũ trang [[Việt Nam Quốc dân Đảng]] cùng các chiến sĩ thuộc các đơn vị này đang trú đóng trong vùng nộp vũ khí về với Chính phủ của Thủ tướng [[Ngô Đình Diệm]]. Giữa năm 1956, ông được cử đi học lớp "Chiến tranh chống Du kích" tại Manilla, Philippines trong thời gian 3 tháng. Ngày 26 tháng 10 cùng năm, sau khi mãn khóa học ở Philippines về nước, ông được thăng cấp [[Thiếu tá]].
Ngày Quốc khánh Đệ nhất Cộng hòa 26 tháng 10 năm 1958, ông được thăng cấp [[Trung tá]], sau đó ông được bổ nhiệm làm Tư lệnh Sư đoàn 15 Khinh chiến (Bản doanh được đặt tại Dục Mỹ, Ninh Hòa, Khánh Hòa) thay thế Trung tá [[Nguyễn Văn Vĩnh (Đại tá, Quân lực VNCH)|Nguyễn Văn Vĩnh]]<ref>
Đầu năm 1960, mãn khóa học từ Mỹ về nước, ông được cử làm Tư lệnh phó Sư đoàn 21 Bộ binh, do Đại tá [[Trần Thiện Khiêm]] làm Tư lệnh. Ông đã cùng Đại tá Khiêm đưa Sư đoàn 21 từ miền Tây về Sài Gòn ứng cứu Tổng thống [[Ngô Đình Diệm]], chống lại nhóm sĩ quan do Đại tá [[Nguyễn Chánh Thi]] (Chỉ huy trưởng Lữ đoàn Nhảy dù) cầm đầu cuộc [[Đảo chính Việt Nam Cộng hòa 1960|Đảo chính ngày 11/11/1960]].<ref>Đại tá Bùi Dzinh có 2 lần đưa quân về ứng cứu Tổng thống [[Ngô Đình Diệm]]. Lần thứ nhất thành công với Sư đoàn 21 Bộ binh ở cuộc [[Đảo chính Việt Nam Cộng hòa 1960|Đảo chính ngày 11/11/1960]]. Lần thứ hai với Sư đoàn 9 Bộ binh không thành công ở cuộc [[Đảo chính Việt Nam Cộng hòa 1963|Đảo chính ngày 1/11/1963]].</ref> Đầu tháng 6 năm 1961, ông được thuyên chuyển về vùng 3 chiến thuật để nhận chức vụ Tư lệnh phó Sư đoàn 5 Bộ binh (Bộ Tư lệnh đặt tại căn cứ Phú Lợi, Bình Dương), dưới quyền Tư lệnh của Thiếu tướng [[Trần Ngọc Tám]]. Hơn 4 tháng sau, tướng Trần Ngọc Tám rời Sư đoàn để về phục vụ ở Trung ương, Đại tá [[Nguyễn Đức Thắng (tướng)|Nguyễn Đức Thắng]] (nguyên Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh) từ Vùng 1 Chiến thuật chuyển về thay thế chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 5. Ngày Quốc khánh 26 tháng 10, ông được thăng cấp [[Đại tá]] tại nhiệm.
Dòng 39:
Ngày 1 tháng 11 năm 1963, ông đã không tán thành cuộc đảo chính của nhóm quân nhân do Trung tướng [[Dương Văn Minh]] lãnh đạo. Sáng sớm ngày 02 tháng 11, mặc dù đang hành quân tại Thị xã Trúc Giang (tỉnh lỵ tỉnh Kiến Hòa), ông đã đưa Sư đoàn 9 Bộ binh về Sài gòn với ý định giải cứu Tổng thống Diệm lần thứ hai. Tuy nhiên lần này ông đã bị Đại tá [[Nguyễn Hữu Có]] (người vừa thay thế Đại tá [[Bùi Đình Đạm]] giữ chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 7 Bộ binh), đem quân chặn ở ngã ba Trung Lương và khu vực bến phà Mỹ Thuận ở sông Tiền. Các đơn vị thuộc Sư đoàn 7 đã rút hết những chiếc phà ở bờ nam thuộc tỉnh Vĩnh Long về hết bờ bắc thuộc tỉnh Định Tường, đồng thời phong tỏa luôn bến phà Rạch Miễu giữa Thị xã Mỹ Tho (Tỉnh lỵ tỉnh Định Tường) và Thị xã Trúc Giang, không cho quân Sư đoàn 9 Bộ binh vượt sông Tiền Giang. Sứ mạng không thành và kết quả là ngày 6 tháng 11, ông được gọi về trình diện gấp [[Hội đồng Quân nhân Cách mạng (Việt Nam Cộng hòa)|Hội đồng quân nhân cách mạng]]. Sau đó ông phải ra trước Hội đồng Kỷ luật Quân đội. Ông bị cách chức và "nghỉ dài hạn không lương", tạm thời không còn được tham gia bất cứ một việc gì trong quân đội nữa (hình thức sa thải khỏi quân đội).
Ngày 19 tháng 2 năm 1965, mặc dù đang ở trong tình trạng "nghỉ dài hạn không lương" và bị cách chức, ông đã cùng với Thiếu tướng [[Lâm Văn Phát]], Đại tá [[Phạm Ngọc Thảo]] và một số sĩ quan tham gia cuộc chỉnh lý lật đổ Quốc trưởng [[Nguyễn Khánh]]. Chính ông đã vạch ra kế hoạch và cùng Trung tá [[Lê Hoàng Thao (Trung tá, Quân lực VNCH)|Lê Hoàng Thao]]<ref>
==1975==
|