Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tần Huệ Văn hậu”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 13:
| nhiếp chính =
| kế nhiệm = [[Tần Điệu Vũ hậu|<font color = "blue">Điệu Vũ hậu</font>]]
| chức vị 1= [[Thái hậu|Vương Thái hậu]] [[nước Tần]]
| tại vị 1= 311 TCN - [[305 TCN]]
| đăng quang 1 =
| tiền nhiệm 1 = <font color = "red">'''Vương Thái hậu đầu tiên'''</font>
| kế nhiệm 1= [[Tuyên Thái hậu|<font color = "blue">Tuyên Thái hậu</font>]]
| hôn phối = [[Tần Huệ Văn vương]]
| chồng = [[Tần Huệ Văn vương]]
Hàng 39 ⟶ 34:
Năm [[334 TCN]], Huệ Văn hậu được đưa đến nước Tần, kết hôn với quân chủ nước Tần là Huệ Văn quân Doanh Tứ, xưng hiệu là '''Ngụy phu nhân'''.<ref>[[Sử ký]], quyển 15, phần "Lục quốc niên biểu" chép: "''[Tần Huệ Văn vương] năm thứ tự, Ngụy phu nhân đến''".</ref> Theo sách [[Sử ký tập giải]], mục "Tần bản kỷ", thì bà nguyên là người [[nước Sở]]. Tuy nhiên, nhà nghiên cứu Dương Khoan đã phủ nhận quan điểm này.<ref name="duongkhoan">{{chú thích sách|author= Dương Khoan|coauthors= |title= Chiến Quốc sử liệu biên niên tập chứng|year= tháng 11 năm 2001 |publisher= Nhà xuất bản Nhân dân Thượng Hải |location= |isbn=7208031851}}</ref>
 
Năm [[329 TCN]], bà sinh hạ công tử Đãng (sau trở thành [[Tần Vũ vương]]). Năm [[325 TCN]], Huệ Văn quân xưng Vương. Bà trở thành Vương hậu đầu tiên của nước Tần. Năm [[311 TCN]], Huệ Văn vương chết, Công tử Đãng kế thừa ngôi vị, gọi là Tần Vũ vương. Tuy nhiên, Tần Vũ vương chỉ ở ngôi được 4 năm thì chết vì tai nạn. Tần Vũ vương có vợ là tông thất [[nước Ngụy]], nhưng không có con trai. Các em trai của Tần Vũ vương tranh đoạt vương vị.
 
Năm [[311 TCN]], Huệ Văn vương chết, Công tử Đãng kế thừa ngôi vị, gọi là Tần Vũ vương. Tuy nhiên, Tần Vũ vương chỉ ở ngôi được 4 năm thì chết vì tai nạn. Tần Vũ vương có vợ là tông thất [[nước Ngụy]], nhưng không có con trai. Các em trai của Tần Vũ vương tranh đoạt vương vị. Trong số các công tử, Huệ Văn hậu chủ trương ủng lập [[côngCông tử Tráng]], là người con trai lớn nhất còn sống của Huệ Văn vương. Tuy nhiên, Đại phu [[Ngụy Nhiễm]], bấy giờ đang thực quyền chưởng ác triều chính, lại ủng lập cho cháu gọi mình bằng cậu là côngCông tử Tắc, vốn đang đang làm [[con tin]] ở [[Yên (nước)|nước Yên]] lên kế thừa vương vị. Cùng lúc đó [[Triệu Vũ Linh vương]] cũng can thiệp vào [[nước Tần]]<ref>Sử ký, Tần bản kỉ</ref>, hợp sức với Ngụy Nhiễm đưa Doanh Tắc lên ngôi, tức [[Tần Chiêu Tương vương]]. Chị Ngụy Nhiễm là Mị Bát Tử, mẹ của côngCông tử Tắc, được tôn làm [[Tuyên Thái hậu]]. Công tử Tráng bất phục.
 
Năm [[305 TCN]], côngCông tử Tráng liên hợp đại thần nổi loạn, bị Tuyên Thái hậu và Ngụy Nhiễm bình định. Huệ Văn hậu, côngCông tử Ung, côngcùng Công tử Tráng đều bị đem ra xử tử.<ref>[[Sử ký]], quyển 72, phần "Nhương hầu liệt truyện" ghi: "''Vũ vương chết, chư đệ tranh lập, riêng Ngụy Nhai [tức Ngụy Nhiễm] đủ khả năng lập [Tần] Chiêu vương. Chiêu vương tức vị, lập Nhai làm Tướng quân, bảo vệ Hàm Dương, dẹp loạn Quý quân [tức công tử Tráng]''".</ref><ref>Sách "Sử ký tác ẩn", phần "Nhương hầu liệt truyện" chép: "''Quý quân tức công tử Tráng, tiếm lập ngôi vị xưng hiệu là Quý quân. Nhương hầu có thực lực, lập Chiêu vương, được phòng làm Tướng quân, bảo vệ Hàm Dương, giết Quý quân cùng với Huệ Văn [hậu]".</ref><ref>Sách "Cổ bản trúc thư kỷ niên", phần "Ngụy kỷ" chép: "''Tần nội loạn, [Ngụy Nhiễm] giết Thái hậu cùng với công tử Ung, công tử Tráng''".</ref><ref>[[Sử ký]], Tần bản kỷ đệ ngũ: "''Thứ trưởng Tráng cùng đại thần và các công tử nổi loạn, bị giết, làm Huệ Văn hậu cũng không thoát khỏi.''".</ref>
 
==Chú thích==