Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tôn Vũ”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Đã lùi lại sửa đổi của 47.156.240.77 (Thảo luận) quay về phiên bản cuối của AlphamaBot
Thẻ: Lùi tất cả
Phonglu (thảo luận | đóng góp)
Dòng 18:
 
== Tiểu sử ==
Tôn Vũ tên chữ là '''Trưởng Khanh''', sinh năm 545 TCN, tức năm [[Chu Linh vương|Chu Linh Vương]] thứ 27, [[Tề Cảnh công|Tề Cảnh Công]] năm thứ 3 ngày 28 tháng 8, người [[Lạc An (định hướng)|Lạc An]] [[tề (nước)|nước Tề]].<ref>Tào Nghiêu Đức, Truyện Tôn Tử, Nhà xuất bản Hà Nội, 2001, trang 26</ref> Vì nội loạn nên gia đình phải chạy đến La Phù Sơn ở ngoại thành [[Cô Tô]] là kinh đô của [[ngô (nước)|nước Ngô]], cầy cấy dệt cửi để sinh sống, để ông tâm nghiên cứu binh pháp. Thời gian này Tôn Vũ với [[Ngũ Tử Tư]] (trọng thần [[ngô (nước)|nước Ngô]]) kết thành mối quan hệ bằng hữu gắn bó. [[Ngũ Tử Tư]] liền tiến cử Tôn Vũ với Ngô vương. Tôn Vũ dâng 13 chương binh pháp lên Ngô vương là [[Ngô Hạp Lư|Hạp Lư]], được Ngô vương rất tán thưởng, Tôn Vũ dùng ngay các cung nữ để diễn tập binh pháp, chém mỹ nhân để thị uy, khiến Ngô vương rất nể vì, lệnh cho làm thượng tướng quân, rồi phong làm quân sư. Tôn sau đó cùng với Ngũ Tử Tư trợ giúp Ngô vương cải cách chính sự, tăng cường quốc lực.<ref>Đức Thành, Binh pháp Tôn Tử, Nhà xuất bản Văn hoá thông tin, 2006, trang 608</ref> [[Tư Mã Thiên]] viết trong [[Sử Ký (định hướng)|Sử Ký]]: ''[[Ngô Hạp Lư|Hạp Lư]] biết Tôn Tử có tài dùng binh và cho Tôn Tử làm tướng. Phía tây quân Ngô phá [[sở (nước)|nước Sở]] mạnh, đi vào đất Sính; phía bắc uy hiếp [[tề (nước)|nước Tề]], [[tấn (nước)|nước Tấn]], nổi tiếng ở chư hầu, Tôn Tử có công ở đấy''.<ref>Tư Mã Thiên, Sử ký, Nhà xuất bản Văn học, 1971, trang 321</ref> Tuy nhiên có mấy vấn đề luôn gây ra sự tranh cãi kịch liệt từ trước đến nay; Tôn Vũ sinh vào năm nào, rốt cuộc Tôn Vũ đã thân chinh chỉ huy bao nhiêu trận đánh. Vừa qua giới nghiên cứu lịch sử cổ đại Trung Quốc khi đã nghiên cứu, đối chiếu, tổng hợp, so sánh từ các sử liệu: ''[[Ngô Việt Xuân Thu]], [[Việt sắc thư]], [[Tả truyện]], [[Sử Ký (định hướng)|Sử ký]]''... đã đưa ra kết luận: ''Trong sự nghiệp quân dịch của mình, Tôn Vũ trực tiếp chỉ huy năm trận đánh và chính năm trận chiến "để đời" này đã góp phần đưa tên tuổi của ông bất hủ cùng thời gian'' <ref>Đức Thành SĐD, trang 608</ref>.
=== Lần chỉ huy thứ nhất ===
Tháng 12 năm 512 TCN, khi đó Ngô vương là [[Ngô Hạp Lư|Hạp Lư]] ra lệnh cho Tôn Vũ chỉ huy quân tiêu diệt hai nước nhỏ là nước Chung Ly và [[từ (nước)|nước Từ]]. Trong lần cầm quân đầu tiên này, Tôn Vũ đã xuất sắc hạ gọn hai nước trên đồng thời thừa thắng chiếm được đất Thư thuộc [[sở (nước)|nước Sở]], lập công lớn, được Ngô vương ban thưởng.
Dòng 26:
 
=== Lần chỉ huy thứ ba ===
Năm 510 TCN, lúc này giữa [[ngô (nước)|nước Ngô]] và [[nước Việt]] lần đầu tiên xảy ra cuộc chiến tranh quy mô lớn mà sử sách còn ghi lại đó là cuộc "Đại chiến Huề - Lý". Trong cuộc chiến này lần đầu tiên Tôn Vũ đưa ra cách dụng binh ''Quý hồ tinh bất quý hồ đa'' trong đánh trận, do vậy chỉ với ba vạn quân với phép dụng binh tài tình của mình, Tôn Vũ đã đánh bại 16 vạn quân [[nước Việt]].
 
=== Lần chỉ huy thứ tư ===
Dòng 32:
 
=== Lần chỉ huy thứ năm ===
Hai nước Ngô - Sở một lần nữa xảy ra chiến tranh vào ngày 18 tháng 11 năm 506 TCN sử sách gọi đây là ''[[cuộc chiến Bách Cử]]''. Đây là cuộc chiến lớn nhất trong lịch sử hai nước. Lần này [[sở (nước)|quân Sở]] huy động 25 vạn quân tiến đánh [[ngô (nước)|nước Ngô]], khí thế báo thù rất sôi sục. Theo kế của Tôn Vũ và [[Ngũ Tử Tư]], vua Ngô bí mật liên kết với hai nước nhỏ là Đường và Sái làm thành liên minh chống Sở. Khi tác chiến, Tôn Vũ triệt để lợi dụng địa hình thuận lợi của hai nước đồng minh để triển khai chiến thuật "Khống chế chính diện", "Tập kích vu hồi mạn sườn" của mình. Sau năm lần giao chiến với quân Sở, Tôn Vũ đều giành thắng lợi. Cuối cùng 3 vạn quân Ngô đã phá tan 25 vạn quân Sở buộc Sở vương phải tháo chạy.<ref>Đức Thành, SĐD, trang 610</ref><ref>Trong Mã Nhất Phu, SĐD, trang 9 nói quân Sở có 20 vạn</ref>
 
== Cuối đời ==