Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Âm Lệ Hoa”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 74:
Vào năm Kiến Vũ thứ 13, đất Thục được bình định, Quang Vũ Đế đại phong công thần ngoại thích, nhưng trong đó lại không bao gồm ngoại thích họ Quách của Quách hậu, em trai Quách hậu là Quách Huống mãi đến năm Kiến Vũ thứ 14 ([[38]]) mới thăng nhậm ''"Thành môn Giáo úy"'' (城门校尉). Năm Kiến Vũ thứ 15, ngoại thích họ Âm cùng họ Phàn (thân tộc của mẹ Quang Vũ Đế là [[Phàn Nhàn Đô]]) được sắc chỉ ân phong, lại tiếp tục gạt họ Quách ra một bên. Quang Vũ Đế phong con trưởng của Âm Quý nhân là Lưu Dương làm '''Đông Hải công''' (东海公), nước Đông Hải gồm 23 huyện, là chư hầu quốc lớn nhất trong số các phiên quốc của chúng hoàng tử<ref>《廿二史考异》卷十一:钱大昕云:“《郡国志》东海十三城,赣榆本属琅邪,实十二城。鲁国六城并之,止十八县。而琅邪郡之开阳、临沂、即丘、缯,下邳国之下邳、曲阳、司吾、良成,广陵郡之海西,泰山郡之南城、费,皆故属东海,故运二十九县。”</ref><ref>《后汉书·光武帝纪》二十八年春正月己巳,徙鲁王兴为北海王,以鲁国益东海。</ref>. Quách hậu bởi vì từ từ thất sủng, dòng dõi họ Quách cũng bị gạt sang một bên một cách trắng trợn, luôn bị xếp dưới ngoại thích họ Âm, bởi vậy khiến Quách hậu cực kỳ bất mãn.
Năm Kiến Vũ thứ 17 ([[41]]), Quang Vũ Đế Lưu Tú lấy lý do: 「Hoài thế oán đỗi, sổ vi giáo lệnh, bất năng phủ tuần tha tử, huấn trường dị thất; 懷勢怨懟,數違教令,不能撫循他子,訓長異室」, ra chỉ phế truất Quách hậu, đưa Âm Quý nhân lên thay, trở thành Hoàng hậu.
Thay vì tống giam vào lãnh cung như các Hoàng hậu bị phế truất khác, Quang Vũ Đế đã lập con trai [[Lưu Phụ]] của Quách Thánh Thông làm ''Trung Sơn vương'', và lập bà làm ''Trung Sơn Vương thái hậu''. Quang Vũ Đế cũng phong em trai của Quách Thánh Thông là [[Quách Huống]] (郭況) một chức quan quan trọng và đã ban cho Quách Huống nhiều của cải. Không nỡ lòng nào phế truất cả mẹ lẫn con, Quang Vũ Đế ban đầu vẫn để Lưu Cương làm Hoàng thái tử. Tuy nhiên, vị Hoàng thái tử Lưu Cương này nhận thấy địa vị của mình không chắc chắn, vì mẹ ông đã bị phế truất, từ vị trí ''"Đích trưởng tử"'' bây giờ trở thành ''"Thứ trưởng tử"'', danh không chính ngôn không thuận, nên đã nghe theo thầy học [[Chất Uẩn]] (郅恽) khuyên can, nhiều lần thỉnh cầu lên Quang Vũ Đế chủ động được từ bỏ ngôi vị<ref>《后汉书·郅恽传》后既废,而太子意不自安,恽乃说太子曰:“久处疑位,上违孝道,下近危殆。昔高宗明君,吉甫贤臣,及有纤介,放逐孝子。</ref><ref>《家语》曰:“曾参妻为梨蒸不熟,因出之,终身不娶。其子请焉。曾参曰:‘高宗以后妻杀孝子,尹吉甫以后妻放伯奇,吾上不及高宗,中不比吉甫,知其得免于非乎!’遂不娶。”</ref>. Từ đây, Đông Hải vương Lưu Dương lấy thân phận Đích trưởng tử ở trong triều đình tham dự chính vụ.
Năm Kiến Vũ thứ 19 ([[43]]), [[mùa xuân]], Đông Hải vương Lưu Dương bình định Thiền vu [[Đan Thần]] (单臣), công lao hiển hách<ref>《后汉书·臧宫传》十九年,妖巫维汜弟子单臣、傅镇等,复妖言相聚,入原武城,劫吏人,自称将军。于是遣宫将北军及黎阳营数千人围之。贼谷食多,数攻不下,士卒死伤。帝召公卿诸侯王问方略,皆曰“宜重其购赏”。时显宗为东海王,独对曰:“妖巫相劫,埶无久立,其中必有悔欲亡者。但外围急,不得走耳。宜小挺缓。令得逃亡,逃亡则一亭长足以禽矣。”帝然之,即来宫彻围缓贼,贼众分散,遂斩臣、镇等。宫还,迁城门校尉,复转左中郎将。击武溪贼,至江陵,降之。</ref>. [[Tháng 6]] năm đó, Quang Vũ Đế chấp thuận và phong cho Đông Hải vương Lưu Dương làm [[Hoàng thái tử]] thay thế. Ông cũng đổi tên húy của tân hoàng thái tử thành '''Trang''' (莊)<ref>《后汉书·光武帝纪》六月戊申,诏曰:“《春秋》之义,立子以贵。东海王阳,皇后之子,宜承大统。皇太子强,崇执谦退,愿备藩国。父子之情,重久违之。其以强为东海王,立阳为皇太子,改名庄。</ref>. Sau khi Lưu Trang trở thành Thái tử, lập tức vào Đông Cung tức vị<ref>《后汉书·阴识传》及显宗立为皇太子,以识守执金吾,辅导东宫。</ref>, Quang Vũ Đế dùng hơn 10 vạn tiền mời danh Nho là [[Hoài Vinh]] (桓荣) làm ''"Đông cung Giáo thụ"'', phù trợ Thái tử<ref>《后汉书·桓荣传》时显宗始立为皇太子,选求明经,乃擢荣弟子豫章何汤为虎贲中郎将,以《尚书》授太子。世祖从容问汤本师为谁,汤对曰:“事沛国桓荣。”帝即召荣,令说《尚书》,甚善之。拜为议郎,赐钱十万,入使授太子。</ref>. Từ trước, lúc Lưu Cương làm Thái tử, Quang Vũ Đế vẫn mãi không cho Lưu Cương tức vị Đông Cung, nên nghi chế cùng quan viên cần thiết vẫn chưa được thiết lập, từ khi Lưu Trang được sách lập, mới bắt đầu định quy chế triều nghi, cách thức Thái tử ngự triều như thế nào, cũng mới dần được ghi chép rõ ràng<ref>《后汉书·班彪传》又旧制,太子食汤沐十县,设周卫交戟,五日一朝,因坐东箱,省视膳食,其非朝日,使仆、中允旦旦请问而已,明不媟黩,广其敬也。</ref>. Theo lệ, các hoàng tử không phải Thái tử, khi đã được phong địa thì phải đến nhậm ngay, nhưng trong khi các con trai của Quách Thái hậu cùng Sở vương Lưu Anh - con của Hứa mỹ nhân - đều đã đến phiên quốc, thì các
Từ khi trở thành Hoàng hậu, Âm
=== Hoàng thái hậu tôn quý ===
|