Tên gọi ''chữ quốc ngữ'' được dùng để chỉ chữ quốc ngữ Latinh lần đầu tiên vào năm [[1867]] trên [[Gia Định báo]].<ref>Marcucci, Matthew A. Marcucci,(2009). [http://sino-platonic.org/complete/spp189_chinese_characters.pdf “Rendering Sinograms Obsolete: Vietnamese Script Reform and the Future of Chinese Characters”], Sino-Platonic Papers, number 189,. năm 2009, trangTrang 87.</ref> Tiền thân của tên gọi này là tên gọi ''chữ Tây quốc ngữ'', có nghĩa là văn tự tiếng Pháp. Về sau từ ''Tây'' (chỉ nước Pháp) bị lược bỏ khỏi tên gọiđi để chỉ còn là ''chữ quốc ngữ'',; cócòn nghĩatên làgọi văn''chữ tựTây'' tiếngbấy Việtgiờ được chuyển sang để chỉ chữ Pháp. ''Quốc ngữ'' nghĩa mặt chữ là ngôn ngữ quốc gia, ở [[Việt Nam]] trong thời kỳ này nếu không có từ bổ nghĩa kèm theo cho thấy từ ''quốc ngữ'' được dùng để một ngôn ngữ nào khác như từ ''Tây'' trong ''Tây quốc ngữ'' (chỉ [[tiếng Pháp]]) thì ''quốc ngữ'' mặc định là chỉ tiếng Việt.<ref>張學謙, 《從外國字到國語字── 民族主義、現代化與越南羅馬字政策》, 台灣國際研究季刊, 第10卷, 第1期, năm 2014, trang 2 và 3.</ref><ref>Matthew A. Marcucci, [http://sino-platonic.org/complete/spp189_chinese_characters.pdf “Rendering Sinograms Obsolete: Vietnamese Script Reform and the Future of Chinese Characters”], Sino-Platonic Papers, number 189, tháng 6 năm 2009, trang 87 và 88.</ref>