Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nguyễn Công Trứ”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎Quân sự: replaced: . → . using AWB
Thẻ: Trình soạn thảo mã nguồn 2017
Dòng 3:
 
== Tiểu sử ==
Nguyễn Công Trứ tự '''Tồn Chất''', hiệu '''Ngộ Trai''', biệt hiệu '''Hy Văn'''. Ông sinh ngày mồng 1, tháng 11, năm Mậu Tuất (tức ngày [[19/ tháng 12/]] năm 1778) tại [[Thủ phủ|huyện lỵ]] Quỳnh Côi, phủ Thái Bình. Thân phụ là Ðức Ngạn Hầu Nguyễn Công Tấn quê ở làng [[Uy Viễn]], nay là xã Xuân Giang huyện [[Nghi Xuân]], tỉnh [[Hà Tĩnh]], tri phủ Tiên Hưng - Thái Bình, thân mẫu là Nguyễn Thị Phan, con gái quan Quản nội thị tược Cảnh Nhạc Bá dưới triều vua Lê -  chúa Trịnh. Ông mất ngày 14-11 năm Mậu Ngọ (tức ngày 7-12-1858), thọ 80 tuổi tại quê nhà làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân.
 
Theo các nhà nghiên cứu, từ nhỏ ông nổi tiếng học giỏi, hay thơ văn, tính cách phóng khoáng. Lớn lên trong những năm cuối của nhà Tây Sơn, đến đầu nhà Nguyễn, sau bao lần lận đận "lều chõng", mãi đến năm 41 tuổi (1819) ông mới thi đậu giải nguyên (1820 - 1847) làm quan dưới triều Nguyễn. Lần đầu tiên xuất chinh, Nguyễn Công Trứ giữ chức hành tẩu ở Quốc sứ quán (1820). Sau đó ông liên tiếp giữ các chức Tri huyện Ðường Hào, Hải Dương (1823), Tư nghiệp Quốc Tử Giám (1824), Phủ Thừa phủ Thừa Thiên (1825), tham tán quân vụ, rồi thăng Thị lang Bộ Hình (1826). Năm 1828, Nguyễn Công Trứ thăng Hữu Tham tri Bộ Hình, sang chức Dinh điền sứ. Năm 1832 ông được bổ chức Bố chánh sứ Hải Dương, cùng năm thăng Tham tri Bộ Binh, giữ chức Tổng đốc tỉnh Hải An.