Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Ôn Tĩnh Hoàng quý phi”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n replaced: có 3 người → có ba người, có 6 người → có sáu người, 2 con → hai con (2), 3 con → ba con, 5 con → năm con using AWB
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
{{Thông tin nhân vật hoàng gia|tên=Thanh Đức Tông Cẩn phi|tên gốc=清德宗瑾妃|tước vị=[[Quang Tự Đế]] [[Hoàng quý phi]]|hình=Imperial Consort Jin.jpg|phối ngẫu=[[Thanh Đức Tông]]<br>Quang Tự Hoàng đế|thụy hiệu=<font color = "grey">Ôn Tĩnh Hoàng quý phi</font><br>(溫靖皇貴妃)|tước hiệu=[Cẩn tần; 瑾嬪]<br>[Cẩn phi; 瑾妃]<br>[Cẩn Quý nhân; 瑾貴人]<br>[Cẩn phi; 瑾妃] (phục vị)<br>[Cẩn Quý phi; 瑾貴妃]<br>[Đoan Khang Hoàng quý phi; 端康皇貴妃]|cha=[[Trường Tự]]|mẹ=Triệu thị|sinh={{ngày sinh|1873|10|6}}|mất={{ngày mất và tuổi|1924|10|20|1873|10|6}}|nơi an táng=Phi viên tẩm của [[Sùng lăng]] (崇陵), [[Thanh Tây lăng]]}}
{{Thông tin nhân vật hoàng gia
| tên = Thanh Đức Tông Cẩn phi
| tên gốc = 清德宗瑾妃
| tước vị = [[Quang Tự Đế]] [[Hoàng quý phi]]
| hình = Imperial Consort Jin.jpg
| phối ngẫu = [[Thanh Đức Tông]]<br>Quang Tự hoàng đế
| thụy hiệu = <font color = "grey">Ôn Tĩnh Hoàng quý phi</font><br>(溫靖皇貴妃)
| tước hiệu = [Cẩn tần; 瑾嬪]<br>[Cẩn phi; 瑾妃]<br>[Cẩn Quý nhân; 瑾貴人]<br>[Cẩn phi; 瑾妃] (phục vị)<br>[Cẩn Quý phi; 瑾貴妃]<br>[Đoan Khang Hoàng quý phi; 端康皇貴妃]
| cha = [[Trường Tự]]
| mẹ = Triệu thị
| sinh = {{ngày sinh|1873|10|6}}
| mất = {{ngày mất và tuổi|1924|10|20|1873|10|6}}
|nơi an táng = Phi viên tẩm của [[Sùng lăng]] (崇陵), [[Thanh Tây lăng]]
}}
 
'''Ôn Tĩnh Hoàng quý phi''' ([[chữ Hán]]: 溫靖皇貴妃, [[6 tháng 10]], năm [[1873]] – [[20 tháng 10]], năm [[1924]]), còn gọi là '''Đức Tông Cẩn phi''' (德宗瑾妃) hoặc '''Đoan Khang Thái phi''' (端康太妃), là một [[phi tần]] của [[Thanh Đức Tông]] Quang Tự Hoàng đế.
Hàng 22 ⟶ 9:
Ôn Tĩnh Hoàng quý phi sinh ngày [[20 tháng 8]] (âm lịch), lại có thuyết nói là [[15 tháng 8]] (âm lịch) năm Đồng Trị thứ 13 ([[1873]]), xuất thân từ [[Mãn Châu]] [[Bát kỳ|Tương Hồng kỳ]] [[Tha Tha Lạp thị]] (他他拉氏), cũng phiên thành '''Tha Tháp Lạp thị''' (他塔喇氏). Một chi gia tộc Tha Tha Lạp thị này tương đối không mấy hiển hách, nếu không muốn đánh giá là tương đối kém.
 
Chi hệ Tha Tha Lạp thị của Ôn Tĩnh Hoàng quý phi lệ thuộc Mãn Châu Tương Hồng kỳ đệ nhất [[Tham lĩnh]] (參領), thuộc [[Tá lĩnh]] (佐領) thứ 13, chức ''Tá lĩnh'' này được quản lý bởi hậu duệ của [[Lang Cách]] (郎格), thế hệ lớn của [[Đại Đồ Khố Ha Lý]] (岱圖庫哈里) thuộc một chi Tha Tha Lạp. Con trai của Lang Cách là [[A Nhĩ Bố Ni]] (阿爾布尼) nhậm Tá lĩnh, cháu [[Đạt Đô]] (達都) nhậm Phụng Thiên tướngTướng quân, là Thanh sơ quan lại thế gia. Tuy nhiên, dù dòng dõi gia tộc của Ôn Tĩnh Hoàng quý phi cũng lệ thuộc dưới sự quản lý của con cháu Lang Cách, cùng họ Tha Tha Lạp thị, nhưng gia tộc của bà cùng Lang Cách lại không chung một gốc, cơ bản không có quan hệ huyết thống, hơn nữa thân phận chênh lệch rất lớn.
 
Căn cứ gia phả của Ôn Tĩnh Hoàng quý phi, tổ tiên nhập kỳ tên gọi [[Ngạch Nhĩ Cổ Đại]] (額爾古岱), tính từ Ngạch Nhĩ Cổ Đại qua tới 5 đời đều chỉ là thường dân. Đến đời thứ 6, có người tên [[Ngũ Đạt Sắc]] (五達色) mới làm được chức quan, là Lục phẩm ''"Kiêu Kị giáo"'' (驍騎校), tuy nhiên qua đến đời con trai ông là [[Toàn Bảo]] (全保) thì lại trở về làm thường dân. Con trai của Toàn Bảo, tên gọi [[Tát Lang A]] (薩郎阿) thi đậu Phiên dịch [[Cử nhân]] năm Càn Long thứ 57, làm đến Lục phẩm [[Chủ sự]] của [[bộ Lại]]. Đến đây thì gia tộc của Ôn Tĩnh Hoàng quý phi chỉ dừng ở mức trung cấp quan liêu. Tát Lang A sinh ra ba con trai: [[Thành Thái (Tha Tha Lạp thị)|Thành Thái]] (成泰) nhậm ''"Bút thiếp thức"'', [[Tân Thái (Tha Tha Lạp thị)|Tân Thái]] (新泰) làm Chủ sự [[Thái Lăng]]; con út [[Dụ Thái]] (裕泰), là tổ phụ của Ôn Tĩnh Hoàng quý phi.
Hàng 29 ⟶ 16:
Tổ phụ Dụ Thái của Ôn Tĩnh Hoàng quý phi từ xuất thân Quan học sinh, thi đậu Nội các Trung thư mà xuất sĩ làm quan, thời [[Đạo Quang]] nhậm qua [[Án sát]], [[Bố chính sứ]] đến [[Thống đốc]] [[Thiểm Tây]] và [[Cam Túc]], trở thành một quan viên địa phương có chức quyền, thụy là ''Trang Nghị'' (莊毅). Dụ Thái đắc thế, làm một chi Tha Tha Lạp thị từ một gia đình quan liêu trung cấp bay thẳng lên hàng thế gia. Điều này có thể chứng minh qua vòng hôn nhân của gia tộc, khi trước đó các vị tằng tổ mẫu và tổ mẫu của Dụ Thái đều là con gái nhà Bát Kỳ bình thường, thậm chí nguyên phối của Dụ Thái là [[Qua Nhĩ Giai thị]] (瓜爾佳氏) xuất thân cũng cực kì bình thường.
 
Nhưng từ khi Dụ Thái đắc thế, hôn nhân trong nhà Tha Tha Lạp thị phất lên qua các đời con của ông. Dụ Thái có 4 trai 4 gái, trong đó: con cả [[Trường Khải]] (長啟), cưới [[Ngũ Di Đặc thị]] (伍彌特氏) là con gái của Nhất đẳng Kế Dũng hầu [[Tô Sùng A]] (蘇崇阿); con trai thứ [[Trường Thiện]] (長善), cưới Qua Nhĩ Giai thị là con gái Đại học sĩ [[Quế Lương]] (桂良); con thứ 3 [[Trường Kính]] (長敬) cưới [[Hách Xá Lý|Hách Xá Lý thị]] là con gái Thị lang [[Thư Nguyên]] (書元). Con trai út, Tả Thị lang Bộ Lễ [[Trường Tự]] (長敘), cha của Ôn Tĩnh Hoàng quý phi, cưới tới 4 vị chính thê, bao gồm: vị thứ nhất, con gái của Tôn Thất Đại học sĩ [[Bảo Hưng]] (寶興), vị thứ 2 là con gái Huệ Đoan Thân vương [[Miên Du]], vị thứ 3 là con gái của Bát nhập bátBát phân Phụ Quốc công đạiĐại học sĩ [[Tái Linh]] (載齡). Trong đó, vị thứ 2 là cháu gái gọi [[Gia Khánh Đế]] bằng ông nội, rõ ràng là được chỉ hôn từ ngay trong cung, dù gia thế nhà Tha Tha Lạp thị từ thời Dụ Thái mới lên, chỉ xét vào ''"Tân quý"'', nhưng có thể đạt đến được chỉ hôn cho Quận chúa, quả thật không hề đơn giản.
 
Tuy vậy, các vị chính thất của Trường Tự đều không lưu lại hậu duệ. Con trai độc nhất, [[Chí Kĩ]] (志錡), là do thiếp thất Triệu thị (趙氏) sinh ra, và Triệu thị cũng là mẹ sinh của Ôn Tĩnh Hoàng quý phi lẫn [[Khác Thuận Hoàng quý phi]] (tức Trân phi), hai bà là con gái thứ 4 và thứ 5 trong tổng số năm con gái của Trường Tự. Thời trẻ, Ôn Tĩnh Hoàng quý phi và Khác Thuận Hoàng quý phi sống tại [[Quảng Châu]]. Năm 13 tuổi, 2 chị em được đón vào Kinh thành.
Hàng 35 ⟶ 22:
== Đại Thanh tần phi ==
=== Trải qua tuyển tú ===
Căn cứ [[Bát Kỳ đô thống nha môn Toàn tông đương|Bát Kỳ Đô thống nha môn Toàn tông đương]] (八旗都統衙門全宗檔), Quang Tự triều sơ tuyển Tú nữ ý chỉ hạ vào năm Quang Tự thứ 11 ([[1885]]), trải đến năm thứ 12 ([[1886]]) đến năm thứ 14 ([[1888]]), thì hai chị em nhà Tha Tha Lạp thị đã qua đến 4 lần tuyển tú.
 
Năm Quang Tự thứ 12 ([[1886]]), ngày [[19 tháng 2]] (âm lịch), lần đầu tuyển tú, Mãn Châu Tương Hoàng kỳ giao tiến 6 người, trong đó có Cẩn phi, được ghi là: 「''Nguyên nhậm Thị lang Trường Tự chi nữ, Niên thập tam tuế, Huệ Côn Tá lĩnh''; 原任侍郎長敘之女,年十三歲,惠昆佐領。」. Ngày đó trải qua tuyển tú, có ba người bị ''"Lược bài tử"'' (撂牌子), trong đó có Cẩn phi, hai người kia là 「''Bang bạn Đại thần Thường Tích chi nữ, Niên thập thất tuế, Long Diệu Tá lĩnh"''; 幫辦大臣常績之女,年十七歲,隆耀佐領」 và 「''"Tuần phủ Đức Hinh chi nữ, Niên thập ngũ tuế, Phú Sâm Bố Tá lĩnh"''; 巡撫德馨之女,年十五歲,富森布佐領」.
Hàng 43 ⟶ 30:
Năm Quang Tự thứ 14 ([[1888]]), ngày [[5 tháng 10]] (âm lịch), là lần thứ 4 tuyển tú. Lúc này, hai con gái của Đức Hinh bị lược bài tử, thưởng ''"Đại quyển Tứ sơ"'' (大卷四疋), ''"Y diện nhất kiện"'' (衣面一件), còn hai chị em Cẩn phi cùng Trân phi chính thức được chọn, chỉ định làm [[Tần (hậu cung)|Tần]].
 
Quá trình tuyển vòng cuối, quyết định Hậu và phi tần được diễn ra ở [[Thể Hòa điện]] (體和殿), và câu chuyện này được lưu truyền qua rất nhiều dã sử. Trong đó, phổ biến nhất là câu chuyện truyền miệng từ một vị Thái giám đời Dân Quốc. Lúc này, Quang Tự Đế tuyển chọn 5 tú nữ còn lại là Diệp Hách Na Lạp thị (tức [[Hiếu Định Cảnh hoàng hậu|Hiếu Định Cảnh Hoàng hậu]]), 2 chị em Tha Tha Lạp thị cùng hai con gái của Tuần phủ Đức Hinh. Quang Tự Đế coi trọng con gái nhà Đức Hinh, muốn chọn lập làm Hoàng hậu, tuy nhiên chính Từ Hi Hoàng thái hậu không hài lòng, và khuyên Hoàng đế chọn cháu gái bà, tức Diệp Hách Na Lạp thị, do đó Diệp Hách Na Lạp thị trở thành Hoàng hậu, hai chị em Tha Tha Lạp thị phong Tần, còn hai con gái nhà Đức Hinh bị loại. Tuy câu chuyện truyền miệng này khá phổ biến, song căn cứ theo thư tịch tuyển tú, số lượng tú nữ được tuyển thời đó phải có tầm 30 người. Số lượng 5 người như vậy là nhỏ nên thiếu căn cứ, không đáng tin.
 
Phong hiệu của bà là '''Cẩn tần''' (瑾嬪), theo tài liệu của [[Nội vụ phủ]], ''"Cẩn"'' có Mãn văn là 「Gincihiyangga」, ý là ''"Hoa lệ"'', ''"Tú mỹ"''.
Hàng 78 ⟶ 65:
Cẩn phi cùng Trân phi đều giáng làm Quý nhân. Lấy hình phạt nhẹ này để chấn chỉnh nội chính.|||Dịch lược ý sắc chỉ giáng Cẩn phi và Trân phi ngày 29 tháng 10, năm Quang Tự thứ 20}}
 
Việc hàng vị này không chỉ là Từ Hi thái hậu phản ánh thói xa hoa của chị em Cẩn phi, mà còn liên quan đến việc ''"Khất thỉnh"'', suy ra việc cả hai đã can thiệp chính sư. Có một suy luận rằng, sau khi [[Chiến tranh Trung-Nhật|Chiến tranh Trung - Nhật]] nổ ra ([[1894]] - [[1895]]), anh em họ của Cẩn phi cùng Trân phi là [[Trí Nhuệ]] và [[Văn Đình Thức]] buộc tội [[Lý Hồng Chương]] thỏa hiệp và đầu hàng địch, hai người đã nhờ Trân phi chuyển bản tấu tới Quang Tự Đế, thúc giục Hoàng đế đứng ra lãnh đọa cuộc chiến. Không ngờ, Lý Hồng Chương vu khống Văn Đình Thức và Trân phi có mưu đồ cướp ngôi [[Hoàng hậu]], phản đối Từ Hi Thái hậu can thiệp triều chính, giúp đỡ Hoàng đế làm chủ triều đình. Vì lý do này, Cẩn phi và Trân phi bị Từ Hi Thái hậu kết tội tạo phản, giáng thành [[Quý nhân]]<ref>Kwong, Luke S.K. A Mosaic of the Hundred Days: Personalities, Politics and Ideas of 1898 (Harvard University Press; 1984) pg. 60</ref>. Trí Nhuệ và Văn Đình Thức cũng bị Từ Hi Thái hậu bãi chức<ref>Kwong, pg. 60</ref><ref>Kwong, pg. 61</ref>.
 
Dẫu nguyên nhân thế nào, nhưng xem ra Từ Hi Thái hậu cũng không hẳn quá mức tực giận đối với chị em Cẩn Quý nhân, vì chỉ sang năm sau, Quang Tự thứ 21 ([[1895]]), ngày [[15 tháng 10]] (âm lịch), Từ Hi Thái hậu ra chỉ tấn lại Phi vị cho cả hai chị em. Ngày [[12 tháng 11]] (âm lịch) cùng năm, lấy Lễ bộ Hữu Thị lang [[Phổ Thiện]] (溥善) làm Chính sứ, Nội các Học sĩ [[Khôn Tụ]] (堃岫) làm Phó sứ, tiến hành lễ sắc phong Phi vị cho Cẩn Quý nhân.
 
Trong cuộc [[Phong trào Nghĩa Hòa Đoàn|Khởi nghĩa Nghĩa Hòa Đoàn]] năm [[1900]] (năm Quang Tự thứ 26), ngày [[21 tháng 7]] (âm lịch), Cẩn phi tùy giá Đế - Hậu rời kinh sư đến [[Tây An]]. Năm thứ 27 ([[1901]]), ngày [[28 tháng 11]] (âm lịch), Cẩn phi lại tùy Đế - Hậu hồi loan về kinh.
 
=== Cuối đời góa phụ ===
[[File:The Imperial Consort Jin in her old days.jpg|thumb|phải|250px|Cẩn Quý phi những năm tuổi già.]]
 
Năm Quang Tự thứ 34 ([[1908]]), sau khi Quang Tự Đế giá băng, Từ Hi Thái hậu chọn [[Phổ Nghi]] làm Tân hoàngHoàng đế, Hoàng hậu Diệp Hách Na Lạp thị được tôn làm [[Hoàng thái hậu]], tức [[Long Dụ Hoàng thái hậu]]. Ngày [[25 tháng 10]] (âm lịch), Cẩn phi cùng các góa phụ phi tần trong cung đồng loạt tấn phong thêm một bậc, bà được phong '''Cẩn Quý phi''' (瑾貴妃)<ref>[https://ctext.org/wiki.pl?if=gb&chapter=240103&remap=gb#p33 《大清宣统政纪卷之一》]: 谕内阁祺贵妃。瑜贵妃。珣贵妃。王滟晋妃。瑾妃。侍奉大行太皇太后。历有年所。淑顺克昭。均宜加崇位号。以表尊荣。祺贵妃谨尊封为祺皇贵太妃。瑜贵妃尊封为瑜皇贵妃。珣贵妃尊封为珣皇贵妃。王滟晋妃晋封为王滟晋贵妃。瑾妃晋封为瑾贵妃。所有应行事宜。著该衙门察例具奏。现月</ref>.
 
Bà có đôi khi được gọi với huy hiệu '''Kiêm Thiêu Hoàng khảo Cẩn Quý phi''' (兼祧皇考瑾貴妃), dù điều này hoàn toàn không hợp lý. Từ ''"Kiêm Thiêu"'' (兼祧) này, có nghĩa là ''"Kiêm việc thờ tự"'', ý chỉ việc Tuyên Thống Đế trở thành con thừa tự của hai nhà Mục Tông Đồng Trị Đế và Đức Tông Quang Tự Đế. Vì lẽ đó, có thể sử dụng hai chữ ''"Kiêm Thiêu"'' này, chỉ có thể là Hoàng đế và Hoàng hậu, trường hợp ở đây là Quang Tự Đế và Long Dụ Thái hậu. Trong văn tự chính thức, Tuyên Thống Đế chỉ sử dụng để gọi Quang Tự Đế (gọi là '''Kiêm Thiêu Hoàng khảo Đức Tông Cảnh hoàngHoàng đế''' 兼祧皇考德宗景皇帝) và Long Dụ Thái hậu (gọi là '''Kiêm Thiêu Mẫu hậu Hoàng thái hậu''' 兼祧母后皇太后), đối với thân phận của Cẩn Quý phi thì không thể thêm danh xưng này, được chứng minh trong các văn bản chính thức đương thời.
 
Phổ Nghi bấy giờ chỉ mới 2 tuổi 10 tháng, Long Dụ Thái hậu có ảnh hưởng [[nhiếp chính]] cùng Thuần Thân vương [[Tải Phong]], cha ruột của Tuyên Thống Đế Phổ Nghi và [[Viên Thế Khải]]. Phổ Nghi vào cung 6 năm liền không được gặp mẹ, phải nhận Long Dụ Thái hậu làm Dưỡng mẫu, và Long Dụ Thái hậu với thân phận Mẫu hậu đã chịu trách nhiệm trông nom Phổ Nghi trong cung, cùng sự giúp đỡ của Cẩn Quý phi với 3 vị phi tần của Mục Tông Đồng Trị Đế, tức [[Hiến Triết Hoàng quý phi]] (khi đó gọi '''Du Hoàng quý phi'''), [[Cung Túc Hoàng quý phi]] (khi đó gọi '''Tuần Hoàng quý phi''') và [[Đôn Huệ Hoàng quý phi]] (khi đó gọi '''Tấn Quý phi'''). Có ý kiến cho rằng, Long Dụ Thái hậu cùng Cẩn Quý phi quan hệ không mấy căng thẳng, thậm chí là khá tốt đẹp, có lẽ bởi vì trong nhóm Đức Tông góa phụ chỉ còn có bà cùng Thái hậu, luôn cùng nhau hỗ trợ lẫn nhau ảnh hưởng lên Hoàng đế trước sự cạnh tranh của phe Mục Tông góa phụ, đứng đầu là Du Hoàng quý phi.
Hàng 106 ⟶ 93:
Trong việc giáo dục Phổ Nghi, Đoan Khang Thái phi rất khắt khe và đòi hỏi cao. Từ bé, Phổ Nghi được ở trong cung, đi đến đâu mọi người cũng phải quỳ xuống và khấu đầu. Phát hiện ra quyền lực của mình, Phổ Nghi thường bắt đánh đập hoạn quan vì những lỗi nhỏ. Việc này khiến Phổ Nghi thường xuyên bị Thái phi la mắng, cả mẹ ruột là [[Ấu Lan]] cũng bị trách phạt.
 
Năm Dân Quốc thứ 10 ([[1921]]), trong một lần Thái phi triệu Ấu Lan vào cung mắng mỏ, vô tình làm mẹ Phổ Nghi nhục nhã nuốt nha phiến tự sát, từ đó bà đối xử dịu dàng hơn và ít khi mắng Phổ Nghi. Cũng trong năm này, bà lên kế hoạch tổ chức đại hôn cho Phổ Nghi. Lúc bấy giờ, Tuyên Thống hoàngHoàng đế Phổ Nghi tuy đã tuyên bố thoái vị, Hoàng đế chỉ mang tính chất quân chủ lập hiến, không có quyền lực, nhưng hôn sự của Hoàng đế vẫn là vấn đề trọng đại của triều đình Mãn Thanh đang lụi tàn. Rất nhiều người bị tuyển, rồi đào thải, cuối cùng còn lại 4 người: con gái của Vinh Nguyên là Quách Bố La thị, con gái của Đoan Cung là Ngạch Nhĩ Đức Đặc thị, con gái Hành Vĩnh là Hoàn Nhan thị, và cuối cùng là con gái của Dương Thương Trát Bố là Bát Nhĩ Tế Cát Đặc thị, tất cả đều xuất thân quý tộc, không gia đình giàu có thì cũng là dòng dõi cao quý.
 
Năm Dân Quốc thứ 11 ([[1922]]), hai tú nữ được triệu vào cung, một người do Đoan Khang Thái phi đề bạt là [[Uyển Dung]] thuộc gia tộc Quách Bố La thị, con gái [[Vinh Nguyên]] (荣源) - đạiĐại thần nộiNội vụ phủ trong triều, một người là [[Văn Tú]], do Kính Ý Thái phi đề bạt. Khi diễn ra quá trình tuyển chọn, các Thái phi đã ngấm ngầm kình cựa nhau. Căn cứ cách nói của [[Phổ Giai]], Uyển Dung có sự hỗ trợ từ Đoan Khang Thái phi cùng [[Tái Đào]] (载涛), còn Văn Tú có sự ủng hộ từ Kính Ý Thái phi cùng [[Tái Tuân]] (载洵). Nơi này cũng có thể nhìn ra, hai người đều có tương đương bối cảnh, mỗi người đều có một vị Thái phi cùng một vị Hoàng thúc duy trì, trên thực tế thể hiện mâu thuẫn giữa Thái phi cùng với phái Tông thất.
 
Ban đầu, Kính Ý Thái phi khuyên Phổ Nghi chọn Văn Tú làm Hoàng hậu, Phổ Nghi muốn làm theo nhưng Đoan Khang Thái phi phản đối gay gắt, cho rằng Văn Tú xuất thân tầm thường không thể làm Hoàng hậu. Dưới sức ép của Thái phi và các đại thần, Phổ Nghi đành phong Uyển Dung làm [[Hoàng hậu]], Văn Tú làm '''Thục phi''' (淑妃).
Hàng 120 ⟶ 107:
Ảnh chụp đưa đến Dưỡng Tâm điện, tổng cộng 4 trương,... Liền không cần nghĩ ngợi mà ở một trương, tựa hồ có một ít ảnh chụp thuận mắt, dùng bút vẽ khoanh một vòng tròn. Đây là Mãn Châu Ngạch Nhĩ Đức Đặc thị, con gái Đoan Cung, tên là Văn Tú,... là cô nương được Kính Ý Thái phi vừa ý nhất. Kết quả lựa chọn đưa đến chỗ các Thái phi, nhưng Đoan Khang Thái phi không hài lòng, không màng đến Kính Ý Thái phi có phản đối hay không, bèn nói các Vương công đến khuyên ta chọn người theo ý bà, vì Văn Tú gia cảnh bần hàn, lớn lên không đẹp, mà (Đoan Khang Thái phi) lại đề cử cô gái con nhà phú hộ, dáng vẻ lại xinh đẹp. Đó là Mãn Châu Chính Bạch kỳ Quách Bố La thị, con gái Vinh Nguyên, tên Uyển Dung|||Lời tự thuật của Tuyên Thống Đế khi chọn lập Hậu, Phi}}
 
Năm Dân Quốc thứ 13 ([[1924]]), diễn ra [[tết Trung thu]], Đoan Khang Thái phi cùng Phổ Nghi đón tiệc tại Dưỡng Tâm điện, cùng có Uyển Dung, Văn Tú cùng nhóm vươngVương công đạiĐại thần. Sau khi trở về tẩm cung, bà đột nhiên mắc phong hàn. Sang ngày [[22 tháng 9]] (âm lịch), giờ Sửu, Đoan Khang Hoàng quý phi Tha Tha Lạp thị qua đời, hưởng thọ 51 tuổi. Phổ Nghi lấy Hoàng quý thái phi thân phận, tạm quàn tại [[Từ Ninh cung]]. Bà qua đời vài ngày trước khi Phổ Nghi bị trục xuất khỏi [[Tử Cấm Thành Bắc Kinh|Tử Cấm Thành]] bởi Quân phiệt [[Phùng Ngọc Tường]].
 
Sang ngày [[23 tháng 10]] (âm lịch) cùng năm, giờ Thìn, phụng di đến [[Quảng Hóa tự]] (廣化寺) tạm an. Đến ngày [[10 tháng 12]] (âm lịch) cùng năm đó, đưa quan tài táng vào Phi viên tẩm của [[Sùng lăng]] (崇陵) thuộc [[Thanh Tây lăng]]. Sang năm sau ([[1925]]), [[tháng 9]], chính thức làm lễ dâng thụy, [[thụy hiệu]] của bà là '''Ôn Tĩnh Hoàng quý phi''' (溫靖皇貴妃).