Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Luật hình sự”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n replaced: → (5) using AWB
Dòng 1:
Khái niệm '''luật hình sự''' nói về những luật có chung tính chất là xác định những '''hành vi''' (tội) mà xã hội đó không muốn xảy ra, và đề ra những '''hình phạt''' riêng biệt và nặng nề hơn bình thường nếu thành viên xã hội đó phạm vào.
 
Tùy theo loại tội và thẩm quyền, sự trừng phạt (về mặt) hình sự bao gồm tử hình, giam giữ, bị quản thúc hoặc bị phạt vạ. Những tội cổ xưa như sát nhân (giết người), phản quốc.v.v. luật hình sự nơi nào cũng có. Nhưng cũng có nhiều tội ở nước này đưa vào luật hình sự mà nước khác thì không. Ngay cả trong các bộ luật đôi khi cũng không rõ ràng về ranh giới giữa dân sự và hình sự.
 
Luật hình sự thường được tiến hành khởi tố bởi chính quyền, không giống như luật dân sự thường được tiến hành khởi tố bởi người dân hay các pháp nhân khác.
Dòng 30:
Các bộ luật hình sự trên thế giới thể hiện hàng trăm quan điểm, lý luận khác nhau. Trong khuôn khổ giới hạn này rất khó thống kê hoàn chỉnh và đầy đủ mà không bị thiếu sót. Tuy vậy, những yếu tố và khía cạnh sau đây xuất hiện phổ biến trong các luật hình sự: hành vi cấm, sự cố ý, đối tượng bị thiệt hại, yếu tố đồng lõa, các yếu tố bào chữa, và mối liên hệ giữa các yếu tố nói trên.
===Hành vi cấm===
Luật hình sự thường cấm những hành vi cụ thể. Do đó, chứng cứ phạm tội phải hợp lý minh chứng hành động do chính can phạm gây ra. Hành động cụ thể này gọi là hành vi phạm tội (guilty act - Latin: actus reus)
 
Hành vi phạm tội (hành vi cấm) có thể cấu thành bởi một hành động hay một hành động đe dọa, hay trong một số trường hợp hạn hữu, sự bất hành động (tức không làm một việc do mình chuyên trách) cũng là hành vi cấm. Ví dụ: cha mẹ bỏ đói trẻ sơ sinh, cũng là một hành vi cấm.
Dòng 47:
===Đối tượng của xâm phạm===
Công dân hy sinh một phần quyền lợi của mình để tuân thủ luật pháp nhà nước nhằm mục đích được pháp luật bảo hộ không bị các hành vi phạm tội xâm phạm:
* Nhân Mạng - ''sát nhân'' (homocide) là một tội danh cổ xưa khi nghi can giết người phi pháp. Đây là một hành vi được các bộ luật hình sự rất chú trọng và thường được chia ra làm nhiều mức độ khác nhau với mức án khác nhau dựa trên việc có hay không có yếu tố ''"cố ý phạm tội"''. Nếu ''có'' thì tội và hình phạt trở đặc biệt nghiêm trọng (murder) và nếu ''không có'' thì có thể chỉ phạm vào tội ngộ sát. Trong trường hợp thiếu hẳn yếu tố "cố ý phạm tội", phía công tố có thể chuyển qua truy tố tội ngộ sát (manslaughter) hay là bất cẩn gây chết người (involuntary manslaugher) là những tội với hình phạt nhẹ hơn.
* Thân Thể - hầu hết các luật hình sự bảo vệ sự bất khả xâm phạm của cơ thể công dân nói chung. Hành vi ''"đánh người"'' (battery) là tội do bởi sự đụng chạm phi pháp và không được phép. Tội này không bao gồm các hành động đánh nhau khi thi đấu trên võ đài khi 2 người im lặng đồng ý khi đánh nhau trước đám đông. Mặc dù không đánh, nhưng nghi phạm vẫn có thể bị truy tố tội ''"tấn công"'' người khác (assault) nếu hành động của nghi phạm khiến nạn nhân có cảm giác "sợ bị đánh ngay lập tức" (fear of imminent battery). Quan hệ tình dục không đồng thuận hay quan hệ tình dục với trẻ em vị thành niên thường bị truy tố tội ''hiếp dâm'' (rape) - trong đó luật rất cụ thể chi li về các hành vi thể hiện sự hiếp dâm. Hiếp dâm là một dạng của tội đánh người.
* Tài Sản & Nơi Cư Trú - ở các nước [[Phương Tây]], tài sản và nơi cư trú được bảo vệ bởi luật hình sự. Hành vi xuất hiện hay bước vào khu vực, đất, tư gia hay văn phòng không có phép của chủ nhân có thể bị truy tố tội ''xâm nhập trái phép'' (trespassing). Hành vi ''trộm cắp'' (theft), ''biển thủ công quỹ'' (embezzlement), ''lường gạt'' (conversion) đều liên quan đến sự cố ý chuyển nhượng, sử dụng trái phép tài sản thuộc chủ quyền của người khác. Nếu các hành vi trên có kèm sử dụng vũ lực thì lập tức chuyển thành tội danh ''ăn cướp'' (robbery). Với công chức Tây Phương còn có thêm hành vi gian dối, lợi dụng chức quyền lừa gạt (fraud) cũng bị truy tố hình sự.
Dòng 60:
 
Do tính chất nặng nề của hình phạt tội bị hình sự hóa và nhằm giảm thiểu oan sai, luật hình sự thường quy định rất nhiều yếu tố bào chữa và tình tiết giảm nhẹ, nhằm giúp cho vụ án được xét xử công minh. Các yếu tố bào chữa này giúp bên công tố truy tố đúng người đúng tội; giúp bên luật sư biện hộ chỉ ra sự bất cập của bên công tố; và giúp thẩm phán có căn cứ phán xét tính hợp lệ của cáo trạng cùng các nghi vấn và lập luận của bên công tố. Nơi đây chỉ giới thiệu một vài khía cạnh tiêu biểu.
* '''Đối với hành vi phạm tội''' - Hành vi phạm tội có thể được bào chữa (hay được hủy bỏ) nếu thiếu vắng mối '''liên hệ nhân quả''' của hành vi phạm tội đối với thiệt hại gây ra (causation). Chứng minh mối liên hệ này luôn là trách nhiệm của cơ quan công tố. Hành vi phạm tội phải là (1) nguyên nhân duy nhất (hoặc là đủ lớn) và (2) gần gũi trực tiếp nhất của sự thiệt hại. Thiếu vắng một trong 2 yếu tố này thì mối liên hệ nhân quả không thể xác định, và vì thế hành vi phạm tội phải bị hủy bỏ và hậu quả là tội danh không thành lập. Mối liên hệ nhân quả này có nhiều yếu tố cấu thành tùy theo loại hành vi tội phạm, và thường rất là phức tạp, nhất là khi có những '''tình tiết đan xen''' vào quá trình gây án - thì rất có thể một trong những tình tiết ấy đã khiến mối liên hệ nhân quả bị gãy đổ. Ví dụ: người A đánh người B xỉu nằm trên lề đường và A bỏ đi. Sau đó, người C điều khiển xe hơi do say rượu lạc tay lái leo lên lề cán B gây tử vong. Sự xuất hiện của C trực tiếp cán qua B gây ra cái chết cho B là một tình tiết đan xen có thể giúp A thoát tội cố ý giết người. Ngoài ra còn rất nhiều các loại tình tiết khác khiến cho việc xác định hành vi phạm tội gặp nhiều khó khăn, mở ra cơ hội cho các luật sư biện hộ.
* '''Hành vi giết người''' - nếu chứng minh đầy đủ các yếu tố quy định cho thấy nghi can bị điên loạn thần kinh trong lúc giết người thì '''điên loạn thần kinh''' (insanity) có thể là một yếu tố bào chữa hữu hiệu. Tuy nhiên, các quan tòa Phương Tây có hẳn một quy chế cụ thể để "giám định tâm thần" của nghi can và đôi khi kết quả giám định của tòa rất bất ngờ so với khái niệm "bị bệnh tâm thần" của y khoa.
* '''Các yếu tố bào chuẵ khác''' - có rất nhiều yếu tố bào chữa liên quan đến toàn bộ '''giai đoạn của quy trình điều tra tố tụng'''. Mỗi một giai đoạn, '''cơ quan điều tra tố tụng''' đều có thể mắc '''sơ hở''' thiếu sót và có thể bỏ sót tội hay gây ra oan sai. Các yếu tố bào chữa tập trung vào các '''định nghĩa hành vi phạm tội'''của bộ luật hình sự để xem cơ quan công tố có chứng minh điều kiện cần và đủ của các yếu tố cấu thành tội hay không. Nhân chứng mục kích, nhân chứng chuyên gia và tang chứng cũng được 2 bên xem xét cụ thể trong việc tranh luận trước tòa liên quan đến các '''yếu tố cấu thành tội'''. Hiện trường cũng là một khía cạnh quan trọng của vụ án. Phía công tố phải cung cấp toàn bộ tài liệu điều tra liên quan cho bên luật sư biện hộ xem xét nghiên cứu và từ đó bên luật sư biện hộ có thể mời chuyên gia để xem xét và làm chứng trước tòa. Ngoài ra, lời khai của chính nghi can cũng sẽ được sử dụng làm chứng trước tòa. Do đó, nghi can có quyền yêu cầu luật sư tham gia, và hiến pháp bảo hộ '''quyền được tư vấn luật sư''' trong quá trình điều tra.
* '''Mối liên hệ phải có''' - Trong một số tội phạm đòi hỏi phải hội đủ cả hai yếu tố hành vi phạm tội và cố ý phạm tội, các thẩm phán công minh bao giờ cũng phải yêu cầu bên công tố chứng tỏ 2 yếu tố này xảy ra '''cùng một thời điểm phạm tội'''. Các thẩm phán công minh luôn bác bỏ những suy diễn "nhân quả" tùy tiện của bên công tố nếu 2 yếu tố này không xảy ra cùng một thời điểm phạm tội.