Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trí tuệ xúc cảm”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
n replaced: → (2) using AWB
Dòng 6:
Tương tự, năm 1940 David Wechsler đã miêu tả ảnh hưởng của yếu tố không hiểu biết tới các ứng xử thông minh, và chứng tỏ xa hơn rằng các mô hình của chúng ta về sự thông minh vẫn chưa hoàn thiện cho tới khi chúng ta có thể miêu tả thích đáng các yếu tố này. Năm 1983, trong cuốn ''Frames of Mind: The Theory of Multiple Intelligences'' (Những cơ cấu của nhận thức: Lý thuyết về thông minh bội) <ref>Gardner, H. (1983). Frames of mind. New York: Basic Books.</ref> của Howard Gardner đã giới thiệu về ý tưởng về những thông minh bội mà trong đó bao gồm "Trí tuệ giữa các cá nhân" (khả năng hiểu những ý định, động cơ và mong muốn của người khác) và "Trí tuệ trong cá nhân" (khả năng hiểu ai đó, tán đồng cảm nhận của người đó, cảm giác sợ hãi và động cơ thúc đẩy). Trong quan sát của Gardner, các kiểu trí tuệ truyền thống như IQ, không thể giải thích một cách đầy đủ khả năng nhận thức của con người.<ref>{{Chú thích web | url = http://www.infed.org/thinkers/gardner.htm | tiêu đề = Howard Gardner, multiple intelligences and education | tác giả 1 = | ngày = | ngày truy cập = 13 tháng 2 năm 2015 | nơi xuất bản = infed.org | ngôn ngữ = }}</ref> Vì vậy thậm chí với những tên cho trước đến những khái niệm biến đổi, đều có một tin tưởng chung rằng những định nghĩa truyền thống về trí tuệ đang thiếu khả năng giải thích những kết quả trước đó.
 
Wayne Payne là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ Trí tuệ xúc cảm (TTXC) trong luận văn tiến sĩ của anh: "Nghiên cứu về xúc cảm: Phát triển trí tuệ xúc cảm" vào năm 1985.<ref>Payne, W.L. (1983/1986). A study of emotion: developing emotional intelligence; self integration; relating to fear, pain and desire. Dissertation Abstracts International, 47, p. 203A. (University microfilms No. AAC 8605928)</ref> Tuy nhiên, thuật ngữ gần tương tự đã xuất hiện trước đó Leuner (1966). Greenspan (1989) cũng đồng thời đề xuất mô hình TTXC này năm 1985, nối tiếp bởi Salovey và Mayer (1990), và Goleman (1995).
 
==Định nghĩa==
Có rất nhiều tranh luận về định nghĩa của TTXC khi xem xét thuật ngữ và cả các hoạt động. Tiên phong là Salovey và Mayer (1990) đã định nghĩa TTXC là "khả năng giám sát cảm giác và xúc cảm của một người nào đó và những người khác, phân biệt giữa họ và sử dụng thông tin này để dẫn dắt suy nghĩ và hành động của người đó".<ref name="salovey90">[[Peter Salovey|Salovey, P.]] & [[John D. Mayer|Mayer, J.D.]] (1990) [http://www.unh.edu/emotional_intelligence/EIAssets/EmotionalIntelligenceProper/EI1990%20Emotional%20Intelligence.pdf "Emotional intelligence"] Imagination, Cognition, and Personality, 9, 185-211</ref>
 
Mặc dù với định nghĩa sớm này, vẫn có sự nhầm lẫn khi xem xét nghĩa chính xác của cách xây dựng này. Các định nghĩa thường quá biến hóa, và các lĩnh vực cũng lớn mạnh rất nhanh, các nhà nghiên cứu thường xuyên thay đổi các định nghĩa.<ref>Dulewicz V & Higgs M. (2000). Emotional intelligence – A review and evaluation study. Journal of Managerial Psychology 15 (4), 341 – 372</ref> Hiện tại, có ba mô hình TTXC chính: