Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hồ Nguyên Trừng”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Dòng 68:
 
===Đánh quân Minh lần thứ hai===
Tháng 9 âm lịch năm [[1406]], Minh Thành Tổ lại sai Chinh Di phó tướng quân Tân Thành hầu [[Trương Phụ]], Tham tướng Huỳnh Dương bá [[Trần Húc]] đem 40 vạn quân đánh ải Pha Lũy, cùng lúc Chinh Di tả phó tướng quân Tây Bình hầu [[Mộc Thạnh]], Tham tướng hữu quân đô đốc đồng tri Phong Thành hầu [[Lý Bân]] đem 40 vạn quân đánh ải Phú Lệnh. Quân Minh nhanh chóng vượt qua biên giới. Đến tháng 11, hai cánh quân Minh gặp nhau ở [[Bạch Hạc]], bày doanh trại ở bờ bắc sông Cái đến tận Trú Giang. [[Hồ Hán Thương]] sai đại quân đóng đối diện với doanh trại quân Minh, quân ở sông Cái do Hồ Nguyên Trừng chỉ huy, quân ở Trú Giang do Thiêm văn triều chính [[Hồ Đỗ]] chỉ huy. Phía ngoài liên kết chiến hạm của thủy quân, trên bờ thì quân bộ đóng.{{sfn|Ngô Sĩ Liên|1993|p=307}} Việc ông lập một phòng tuyến chống giặc bắt đầu bằng cứ điểm then chốt [[Đa Bang]] (Ba Vì) kéo dài theo bờ nam [[sông Đà]][, [[sông Hồng]] cho đến sông Ninh ([[Nam Hà]]) rồi lại tiếp tục theo bờ [[sông Luộc]], [[sông Thái Bình]] đến Bình Than dài trên 400&nbsp;km. Hồ Nguyên Trừng cũng sáng tạo ra cách đánh độc đáo: ông cho đúc nhiều dây xích lớn chăng qua những khúc sông hiểm trở, kết hợp với quân mai phục trang bị bằng hỏa lực mạnh. Hồ Nguyên Trừng tổ chức những xưởng đúc súng lớn. Ông đã phát minh, chế tạo ra nhiều loại súng có sức công phá mạnh. Từ việc cải tiến súng, chế thuốc súng, hiểu rõ sức nổ của thuốc đạn Hồ Nguyên Trừng phát minh ra phương pháp đúc súng mới gọi là súng "thần cơ".<ref name="kyluc.vn"/>
 
Ở Bạch Hạc, Trương Phụ và Mộc Thạnh làm bảng văn kể tội [[nhà Hồ]], hứa hẹn khôi phục [[nhà Trần]]. Sau đó quân Minh chia nhau viết lại lời bảng văn này vào nhiều miếng ván gỗ, rồi thả trôi sông. Quân [[Đại Ngu]] trông thấy, nhiều người mất niềm tin vào hoàng gia, không còn muốn chiến đấu. Các tướng Mạc Địch, [[Mạc Thúy]], Mạc Viễn và Nguyễn Huân đầu hàng [[nhà Minh]] và được trao quan tước. Hồ Nguyên Trừng và các tướng đành cố thủ nơi hiểm trở, đợi quân Minh mỏi mệt rồi mới ra đánh. Tháng 12 âm lịch năm [[1406]], Mộc Thạnh bàn với Trương Phụ: ''"Những hàng rào gỗ mà bên địch dựng lên đều sát liền sông, quân ta không thể tiến lên được; chỉ có [[Đa Bang]] là nơi đất cát bằng phẳng có thể đóng quân, chỗ ấy tuy thành đất khá cao, bên dưới có mấy tầng hào, nhưng khí giới đánh thành của ta đều đầy đủ, đánh mà chiếm lấy cũng có phần dễ"''.{{sfn|Quốc sử quán triều Nguyễn|1998|pp=335-336}} Trương Phụ nghe theo, ngay đêm đó hạ lệnh cho Đô đốc [[Hoàng Trung]] tấn công mặt tây bắc, Đô đốc [[Trần Tuấn]] tấn công mặt đông nam. Quân Minh bắc thang mây trèo lên thành. Quân Hồ Nguyên Trừng không đỡ nỗi và lui vào thành. Hôm sau, quân Đại Ngu khoét thành cho voi ra đánh. Quân Minh lấy những bức vẽ hình sư tử trùm lên mình ngựa, lại huy động đại bác bắn voi. Voi chạy vào thành, quân Minh ào lên đuổi thành, tràn vào trong thành. [[Thành Đa Bang]] thất thủ, các đơn vị khác của Đại Ngu đóng ven sông cũng tan vỡ. Tả Tướng quốc Hồ Nguyên Trừng thúc quân chạy về Hoàng Giang, bỏ lại [[Đông Đô]] trong tay quân Minh. Người Minh vào [[Đông Đô]], đặt quan cai trị, tích trữ lương thực, chiêu tập dân phiêu tán, chuẩn bị đô hộ lâu dài.{{sfn|Quốc sử quán triều Nguyễn|1998|pp=335-336}}