Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lớp phủ (địa chất)”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →Đặc trưng: replaced: [[Calcium → [[Canxi using AWB |
n replaced: → (7) using AWB |
||
Dòng 22:
[[Tập tin:Earthquake wave paths.png|nhỏ|trái|Lập bản đồ phần bên trong của [[Trái Đất]] với sóng [[động đất|địa chấn]].]]
Đá lớp phủ nằm nông hơn khoảng 400 km độ sâu bao gồm chủ yếu là [[olivin]]<ref name="eis">{{chú thích web |url=http://geology.com/nsta/earth-internal-structure.shtml
|title=Earth's Internal Structure – Crust Mantle Core – Geology.com |accessdate=ngày 8 tháng 10 năm 2008}}</ref>, [[pyroxen]], [[spinel]] và [[granat|thạch lựu]]<ref name="burns"/><ref name="aus">{{chú thích web |url=http://www.amonline.net.au/geoscience/earth/structure.htm#mantle |title=Geoscience: the earth: structure… |publisher=Australian Museum |date=2004 |accessdate=ngày 8 tháng 10 năm 2008}}</ref>; các kiểu đá điển hình được cho là [[peridotit]],<ref name="burns"/> [[dunit]] (peridotit giàu olivin) và [[eclogit]]. Giữa độ sâu khoảng 400 km và 650 km, olivin không ổn định và bị thay thế bằng các dạng [[đa hình (vật liệu)|đa hình]] áp suất cao với xấp xỉ cùng một thành phần: một đa hình là [[wadsleyit]] (hay kiểu ''beta-spinel''), còn đa hình kia là [[ringwoodit]] (khoáng vật với cấu trúc kiểu ''gamma-[[spinel]]''). Dưới độ sâu 650 km, tất cả các loại khoáng vật của lớp phủ trên bắt đầu trở thành không ổn định; các khoáng vật phổ biến nhất hiện diện có cấu trúc (nhưng không phải thành phần)
{{chú thích web |url=http://geology.about.com/library/weekly/aa030898.htm |title=The Big Squeeze: Into the Mantle |last=Alden |first=Andrew |accessdate=ngày 8 tháng 10 năm 2008 |publisher=About.com}}</ref>.
Dòng 30:
! width="14%" | Nguyên tố
! width="12%" | Tỷ lệ phần trăm
! width="2%" bgcolor="#ffffff" rowspan="10"
! width="14%" | Hợp chất
! width="12%" | Tỷ lệ phần trăm
Dòng 37:
| align="right" | 41,0-47,7
| bgcolor="#f0f0f0" align="center" |
| align="right"
|-
| bgcolor="#f0f0f0" align="center" | [[Silic|Si]]
Dòng 82:
== Chuyển động ==
Do khác biệt nhiệt độ giữa bề mặt Trái Đất và lớp lõi ngoài, và khả năng của các loại đá kết tinh ở nhiệt độ và áp suất cao trong việc có thể trải qua biến dạng chậm, tương tự nhớt trong thời gian trên vài triệu năm,
[[Đối lưu]] của lớp phủ Trái Đất là quá trình hỗn loạn (trong ngữ cảnh và ý nghĩa của động lực học chất lưu), và nó được coi là một bộ phận của chỉnh thể trong chuyển động của các mảng kiến tạo. Chuyển động của mảng không nên lẫn với thuật ngữ cũ hơn là [[trôi dạt lục địa]] chỉ được áp dụng cho chuyển động của các thành phần lớp vỏ của các lục địa. Các chuyển động của thạch quyển và lớp phủ nằm dưới nó tạo thành một cặp đôi do thạch quyển chuyển động xuống là thành phần thiết yếu trong đối lưu lớp phủ. Trôi dạt lục địa là mối quan hệ phức tạp giữa các lực làm cho thạch quyển đại dương chìm xuống và các chuyển động trong lòng lớp phủ của Trái Đất.
Mặc dù ở đây có xu hướng là có độ nhớt cao hơn ở độ sâu lớn hơn, nhưng mối quan hệ này không tuyến tính, và có các lớp với độ nhớt giảm rất mạnh, cụ thể là lớp phủ ngoài và tại ranh giới với lõi<ref name="jena">[http://www.igw.uni-jena.de/geodyn/poster2.html Mantle Viscosity and the Thickness of the Convective Downwellings], truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2008.</ref>. Lớp phủ trong phạm vi độ sâu khoảng 200 km phía trên [[điểm gián đoạn Gutenberg|ranh giới lõi-lớp phủ]] dường như là có các tính chất địa chấn khác biệt đặc trưng hơn so với lớp phủ ở các độ sâu nhỏ hơn; khu vực lớp phủ bất thường nằm ngay phía trên lõi này được gọi là
|last=Alden}}</ref>. '''D″''' có thể bao gồm vật liệu từ các miếng ẩn chìm đã hạ thấp xuống và đi vào trạng thái nghỉ tại [[điểm gián đoạn Gutenberg|ranh giới lõi-lớp phủ]] và/hoặc từ đa hình khoáng vật mới được phát hiện trong perovskit, gọi là [[hậu perovskit]].
Do độ nhớt tương đối thấp tại lớp phủ ngoài nên có thể nghĩ rằng ở đây không thể có các trận [[động đất]] phía dưới độ sâu khoảng 300 km. Tuy nhiên, trong các đới ẩn chìm, gradient địa nhiệt có thể bị hạ thấp, nơi mà
[[Áp suất]] tại đáy lớp phủ khoảng 136 G[[pascal (đơn vị)|Pa]] (1,4 triệu [[át mốt phe]])<ref name="burns"/>. Tồn tại một áp suất tăng lên khi đi sâu hơn vào trong lớp phủ, do vật liệu phía dưới phải gánh chịu trọng lượng của toàn bộ các vật liệu nằm trên nó. Tuy nhiên, lớp phủ tổng thể vẫn chịu biến dạng giống như chất lưu trên thang thời gian lớn, với biến dạng dẻo vĩnh cửu được hỗ trợ bởi chuyển động của điểm, đường và/hoặc khuyết hụt mặt phẳng xuyên qua các tinh thể rắn hợp thành lớp phủ. Ước tính cho độ nhớt của lớp phủ trên nằm trong khoảng 10<sup>19</sup> tới 10<sup>24</sup> [[pascal giây|Pa•s]], phụ thuộc vào độ sâu<ref name="jena" />, nhiệt độ, thành phần hóa học, trạng thái ứng suất và nhiều yếu tố khác. Vì thế, lớp phủ trên chỉ có thể di chuyển rất chậm. Tuy nhiên, khi các lực lớn được áp dụng cho lớp phủ trên cùng nhất, nó có thể trở thành yếu hơn và hiệu ứng này được coi là quan trọng trong việc cho phép sự hình thành của các ranh giới [[mảng kiến tạo]].
|