Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n replaced: → (9) using AWB
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 76:
 
==Lịch sử==
Vùng đất của Tiểu vương quốc đã bị chiếm giữ hàng ngàn năm. Các công cụ bằng đá được phục hồi ở Jebel Faya thuộc tiểu vương quốc Sharjah cho thấy một khu định cư của người dân châu Phi cách đây 127.000 năm và một công cụ bằng đá dùng để giết mổ động vật được phát hiện tại Jebel Barakah trên bờ biển Ả Rập cho thấy nơi cư trú thậm chí từ hơn 130.000 năm trước. Không có bằng chứng liên hệ với thế giới bên ngoài ở giai đoạn đó, mặc dù trong thời gian đó, các liên kết thương mại sôi động được phát triển với các nền văn minh ở Mesopotamia, Iran và văn hóa Harappan của Thung lũng Indus. Sự tiếp xúc này vẫn tồn tại và trở nên rộng khắp, có lẽ được thúc đẩy bởi việc buôn bán đồng tại dãy núi Hajar, bắt đầu khoảng 3.000 TCN. Các nguồn tin của người Sumer nói về UAE như là quê hương của người 'Makkan' hoặc người Magan.
Trong thời kỳ cổ đại, Al Hasa (nay là tỉnh Đông của Ả Rập Xê Út) là bộ phận của Al Bahreyn và tiếp giáp Đại Oman (nay là Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất và Oman). Từ thế kỷ II CN, các bộ lạc chuyển dịch từ Al Bahreyn hướng đến Vùng Vịnh thấp hơn, cùng với đó là luồng di cư của các nhóm bộ lạc Azdite Qahtani (hay Yamani) và Quda'ah từ tây nam bán đảo Ả Rập hướng đến miền trung Oman. Các nhóm Sassanid hiện diện tại bờ biển Batinah. Năm 637, Julfar (tại khu vực nay là [[Ras al-Khaimah|Ra's al-Khaimah]]) là một cảng quan trọng, được sử dụng làm điểm dừng chân của quân Hồi giáo đi xâm lược [[Nhà Sassanid|Đế quốc Sassanid]] Ba Tư.<ref name="AbedHellyer2001">{{cite book|author1=Ibrahim Abed|author2=Peter Hellyer|title=United Arab Emirates, a New Perspective|url=https://books.google.com/books?id=QcMz3zV0qAMC&pg=PA83|year= 2001|work=Trident Ltd|isbn=978-1-900724-47-0|pages=83–84}}</ref> Khu vực Al Ain/Ốc đảo Buraimi được gọi là Tu'am và là một điểm mậu dịch quan trọng đối với các tuyến đường lạc đà giữa duyên hải và nội địa bán đảo Ả Rập.<ref>{{Cite book|title = From Trucial States to United Arab Emirates|last = Bey|first = Frauke|work= Longman|year = 1996|isbn = 0582277280|location = UK|pages = 22–23}}</ref>
 
Có sáu thời kỳ định cư chính của con người thời tiền Hồi giáo, bao gồm thời kỳ Hafit từ 3.200-2.600 TCN; văn hóa Umm Al Nar kéo dài từ 2.600-2.000 TCN, người Wadi Suq thống trị từ 2.000-1.300 TCN. Từ năm 1.200 trước Công nguyên đến sự ra đời của Hồi giáo ở Đông Ả Rập, qua ba thời đại đồ sắt (Thời đại đồ sắt 1, 1.200-1.000 trước Công nguyên; Thời đại đồ sắt 2, 1.000-600 trước Công nguyên và Thời đại đồ sắt 3, 600-300 trước Công nguyên) và thời kỳ Mleiha (năm 300 trước Công nguyên) khu vực này đã bị Achaemenid và các lực lượng khác chiếm đóng và chứng kiến ​​việc xây dựng các khu định cư kiên cố và chăn nuôi rgờ vào sự phát triển của hệ thống thủy lợi falaj.
 
Trong thời kỳ cổ đại, Al Hasa (nay là tỉnh Đông của Ả Rập Xê Út) là bộ phận của Al Bahreyn và tiếp giáp Đại Oman (nay là Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất và Oman). Từ thế kỷ II CN, các bộ lạc chuyển dịch từ Al Bahreyn hướng đến Vùng Vịnh thấp hơn, cùng với đó là luồng di cư của các nhóm bộ lạc Azdite Qahtani (hay Yamani) và Quda'ah từ tây nam bán đảo Ả Rập hướng đến miền trung Oman. Các nhóm Sassanid hiện diện tại bờ biển Batinah.
 
=== Hồi giáo ===
Thời điểm Hồi giáo truyền bá đến mũi đông bắc của bán đảo Ả Rập được cho là diễn ra ngay sau một lá thư của Nhà tiên tri Hồi giáo [[Muhammad]] gửi đến những người cai trị Oman vào năm 630. Tiếp đó có một nhóm người cai trị đi đến [[Medina]], cải sang Hồi giáo và sau đó lãnh đạo khởi nghĩa thành công chống lại Sassanid.<ref>{{Cite book|title = From Trucial States to United Arab Emirates|last = Bey|first = Frauke|work= Longman|year = 1996|isbn = 0582277280|location = UK|page = 127}}</ref> Sau khi Muhammad từ trần, các cộng đồng Hồi giáo mới ở phía nam vịnh Ba Tư có nguy cơ tan rã do có các cuộc khởi nghĩa chống các thủ lĩnh Hồi giáo. [[Abu Bakr|Khalip Abu Bakr]] phái một đội quân từ thủ đô Medina, họ hoàn thành tái chinh phục lãnh thổ sau trận chiến đẫm máu tại Dibba khiến khoảng 10.000 người thiệt mạng.<ref>{{Cite book|title = From Trucial States to United Arab Emirates|last = Bey|first = Frauke|work= Longman|year = 1996|isbn = 0582277280|location = UK|pages = 127–128}}</ref> Hành động này đảm bảo tính toàn vẹn của Đế quốc Hồi giáo và thống nhất bán đảo Ả Rập dưới quyền [[Nhà Rashidun|Đế quốc Rashidun]] mới xuất hiện.
 
Trong thời kỳ cổ đại, Al Hasa (nay là tỉnh Đông của Ả Rập Xê Út) là bộ phận của Al Bahreyn và tiếp giáp Đại Oman (nay là Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất và Oman). Từ thế kỷ II CN, các bộ lạc chuyển dịch từ Al Bahreyn hướng đến Vùng Vịnh thấp hơn, cùng với đó là luồng di cư của các nhóm bộ lạc Azdite Qahtani (hay Yamani) và Quda'ah từ tây nam bán đảo Ả Rập hướng đến miền trung Oman. Các nhóm Sassanid hiện diện tại bờ biển Batinah. Năm 637, Julfar (tại khu vực nay là [[Ras al-Khaimah|Ra's al-Khaimah]]) là một cảng quan trọng, được sử dụng làm điểm dừng chân của quân Hồi giáo đi xâm lược [[Nhà Sassanid|Đế quốc Sassanid]] Ba Tư.<ref name="AbedHellyer2001">{{cite book|author1=Ibrahim Abed|author2=Peter Hellyer|title=United Arab Emirates, a New Perspective|url=https://books.google.com/books?id=QcMz3zV0qAMC&pg=PA83|year= 2001|work=Trident Ltd|isbn=978-1-900724-47-0|pages=83–84}}</ref> Khu vực Al Ain/Ốc đảo Buraimi được gọi là Tu'am và là một điểm mậu dịch quan trọng đối với các tuyến đường lạc đà giữa duyên hải và nội địa bán đảo Ả Rập.<ref>{{Cite book|title = From Trucial States to United Arab Emirates|last = Bey|first = Frauke|work= Longman|year = 1996|isbn = 0582277280|location = UK|pages = 22–23}}</ref>
 
Địa điểm Cơ đốc giáo sớm nhất ở UAE được phát hiện lần đầu tiên vào những năm 1990, một khu phức hợp tu viện rộng lớn trên hòn đảo ngày nay là Đảo Sir Bani Yas và có từ thế kỷ thứ 7. Được cho là Nestorian và được xây dựng vào năm 600 sau Công nguyên, nhà thờ dường như đã bị bỏ hoang vào năm 750 sau Công nguyên. Nó tạo thành một liên kết hiếm hoi với di sản của Kitô giáo được cho là đã lan rộng trên bán đảo từ 50 đến 350 sau Công nguyên theo các tuyến đường thương mại. Chắc chắn, vào thế kỷ thứ 5, Ô-man có một giám mục tên là John - giám mục cuối cùng của Ô-man là Etienne, vào năm 676 sau Công nguyên.
 
=== Thời đại Ottoman và Bồ Đào Nha ===
[[File:Arabia_1914.png|thumb|Bản đồ khu vực vào năm 1914]]
Môi trường hoang mạc khắc nghiệt dẫn đến xuất hiện "bộ lạc đa tài", các nhóm du mục sinh sống nhờ một loạt các hoạt động kinh tế, bao gồm chăn nuôi, trồng trọt và săn bắn. Các nhóm này chuyển dịch theo mùa nên họ thường xuyên xung đột với nhau, và lập ra các khu dân cư và trung tâm mùa vụ và bán mùa vụ. Chúng hình thành các nhóm bộ lạc có danh xưng tồn tại đến nay, trong đó có Bani Yas và Al Bu Falah của Abu Dhabi, Al Ain, Liwa và duyên hải Al Bahrayn, Dhawahir, Awamir và Manasir tại nội địa, Sharqiyin tại duyên hải phía đông và Qawasim ở phía bắc.<ref>{{Cite book|title = The Gazetteer of the Persian Gulf, Oman and Central Arabia|last = Lorimer|first = John|work= Government of India|year = 1908|isbn = |location = Bombay|pages = 1432–1436}}</ref>
Hàng 85 ⟶ 95:
Đến thế kỷ XVI, các cảng tại vịnh Ba Tư và bộ phận cư dân tại khu vực nay là duyên hải Iraq, Kuwait và Ả Rập Xê Út nằm dưới ảnh hưởng trực tiếp của [[Đế quốc Ottoman]].<ref>{{Cite book|title = The Ottoman Gulf: The Creation of Kuwait, Saudi Arabia, and Qatar|last = Anscombe|first = Frederick F.|work= Columbia University Press|year = 1997|isbn = |location = New York}}</ref><ref>{{Cite book|title = The Ottoman View of British Presence in Iraq and the Gulf: The Era of Abdulhamid II |last = Çetinsaya|first = Gökhan|work= Frank Cass|year = 2003|isbn = |location = Luân Đôn}}</ref> Trong khi đó, các lực lượng thực dân Bồ Đào Nha, Anh và Hà Lan cũng xuất hiện tại Vùng Vịnh, còn toàn bộ duyên hải phía bắc vịnh Ba Tư lúc này vẫn do Ba Tư cai quản. Đến thế kỷ XVII, bang liên Bani Yas là lực lượng chi phối hầu hết khu vực nay là Abu Dhabi.<ref>{{Cite book|title = From Trucial States to United Arab Emirates|last = Bey|first = Frauke|work=Longman|year = 1996|isbn = 0582277280|location = UK|page = 43}}</ref><ref>'Kashf Al Gumma' "Annals of Oman from Early times to the year 1728 AD" – Journal of the Asiatic Society of Bengal, 1874</ref><ref>Ibn Ruzaiq, translated by GP Badger, "History of the Imams and Sayids of Oman", Luân Đôn 1871</ref> Người Bồ Đào Nha duy trì ảnh hưởng đối các khu dân cư duyên hải, xây dựng các công sự sau khi chinh phạt các khu dân cư duyên hải trong thế kỷ XVI, đặc biệt là trên duyên hải phía đông tại [[Muscat, Oman|Muscat]], [[Sohar]] và [[Khor Fakkan]].<ref>{{Cite book|title = From Trucial States to United Arab Emirates|last = Bey|first = Frauke|work=Longman|year = 1996|isbn = 0582277280|location = UK|page = 282}}</ref>
 
Duyên hải phía nam vịnh Ba Tư được người Anh gọi là "Duyên hải Hải tặc",<ref>Baker, Randall, ''King Husain and the Kingdom of Hejaz'', The Oleander Press, 1979, Great Britain</ref><ref>THE BRITISH THREAT TO THE OTTOMAN PRESENCE IN THE PERSIAN GULF DURING THE ERA OF ABDULHAMID II AND THE RESPONSES TOWARDS IT, BILAL EMRE BIRAL, MIDDLE EAST TECHNICAL UNIVERSITY, ANKARA, 2009</ref> do thuyền của liên bang [[Al Qawasim]] (Al Qasimi) có căn cứ tại khu vực này tiến hành quấy nhiễu tàu treo cờ Anh từ thế kỷ XVII cho đến thế kỷ XIX.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.waynemadsenreport.com/articles/20081102_3 |tiêu đề=November 3, 2008&nbsp;– The UAE is the old Pirate Coast. Not much has changed. |work=Wayne Madsen Report |ngày truy cập=12 February 2016 }} {{dead link|date=October 2016}}</ref>

Các đội viễn chinh Anh bảo vệ tuyến đường đến Ấn Độ trước những kẻ cướp tại [[Ras al-Khaimah]] dẫn đến các chiến dịch nhằm vào các trụ sở và bến cảng khác dọc duyên hải vào năm 1809 và sau đó là vào năm 1819. Đến năm sau, Anh Quốc và một số người cai trị địa phương ký một hiệp ước chiến đấu với nạn hải tặc dọc duyên hải vịnh Ba Tư, khiến xuất hiện thuật ngữ "Các Nhà nước đình chiến", xác định tình trạng của các tiểu vương quốc duyên hải. Các hiệp ước tiếp theo được ký kết vào năm 1843 và 1853.
 
Theo hiệp ước năm 1892, những người theo đạo Hồi đã đồng ý không định đoạt bất kỳ lãnh thổ nào ngoại trừ người Anh và không tham gia vào các mối quan hệ với bất kỳ chính phủ nước ngoài nào ngoài người Anh mà không có sự đồng ý của họ. Đổi lại, người Anh hứa sẽ bảo vệ bờ biển khỏi mọi sự xâm lược bằng đường biển và giúp đỡ trong trường hợp bị tấn công trên bộ. Hiệp ước này được ký kết bởi các quân chủ của Abu Dhabi, Dubai, Sharjah, Ajman, Ras Al Khaimah và [[Umm Al Quwain]] từ ngày 6 đến ngày 8 tháng 3 năm 1892. Sau đó nó được Phó vương Ấn Độ và Chính phủ Anh tại [[Luân Đôn]] phê chuẩn.<ref>{{Chú thích web|tác giả=Tore Kjeilen |url=http://looklex.com/e.o/trucial_states.htm |tiêu đề=Trucial States |nhà xuất bản=Looklex.com |ngày=4 April 2007 |url hỏng=yes |url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20100131182401/http://looklex.com/e.o/trucial_states.htm |ngày lưu trữ=31 January 2010 }}</ref> Do chính sách hàng hải của Anh, các đội tàu ngọc trai có thể hoạt động tương đối an toàn. Tuy nhiên, người Anh cấm chỉ buôn bán nô lệ nên một số sheikh và thương nhân bị mất một nguồn thu nhập quan trọng.<ref>[http://countrystudies.us/persian-gulf-states/84.htm United Arab Emirates – The Economy]. [[Library of Congress Country Studies]]. Retrieved 14 July 2013.</ref>
 
Năm 1869, bộ lạc Qubaisat định cư tại Khawr al Udayd cố gắng tranh thủ sự ủng hộ của Ottoman. Khawr al Udayd đã được Abu Dhabi tuyên bố vào thời điểm đó, một yêu sách được người Anh ủng hộ. Năm 1906, Percy Cox, thường trú Anh, đã xác nhận bằng văn bản cho nhà cai trị của Abu Dhabi, Zayed bin Khalifa Al Nahyan ('Zayed the Great') rằng Khawr al Udayd thuộc về tôn giáo của ông.
 
===Thời kỳ Anh bảo hộ và tìm ra dầu mỏ ===
 
Nhằm phản ứng trước tham vọng của các quốc gia châu Âu khác là Pháp và Nga. Anh và "Các quốc gia Đình chiến" đã lập quan hệ mật thiết hơn trong một hiệp ước năm 1892. Các sheikh (quân chủ) chấp thuận không chuyển nhượng bất kỳ lãnh thổ nào với ngoại lệ là Anh và không tham gia các mối quan hệ với bất kỳ chính phủ ngoại quốc nào ngoại trừ Anh mà không được Anh đồng ý. Đổi lại, Anh hứa bảo hộ Duyên hải Đình chiến trước toàn bộ các cuộc công kích bằng đường biển và giúp đỡ trong trường hợp có tấn công trên bộ. Hiệp ước này được ký kết bởi các quân chủ của Abu Dhabi, Dubai, Sharjah, Ajman, Ras Al Khaimah và [[Umm Al Quwain]] từ ngày 6 đến ngày 8 tháng 3 năm 1892. Sau đó nó được Phó vương Ấn Độ và Chính phủ Anh tại [[Luân Đôn]] phê chuẩn.<ref>{{Chú thích web|tác giả=Tore Kjeilen |url=http://looklex.com/e.o/trucial_states.htm |tiêu đề=Trucial States |nhà xuất bản=Looklex.com |ngày=4 April 2007 |url hỏng=yes |url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20100131182401/http://looklex.com/e.o/trucial_states.htm |ngày lưu trữ=31 January 2010 }}</ref> Do chính sách hàng hải của Anh, các đội tàu ngọc trai có thể hoạt động tương đối an toàn. Tuy nhiên, người Anh cấm chỉ buôn bán nô lệ nên một số sheikh và thương nhân bị mất một nguồn thu nhập quan trọng.<ref>[http://countrystudies.us/persian-gulf-states/84.htm United Arab Emirates – The Economy]. [[Library of Congress Country Studies]]. Retrieved 14 July 2013.</ref>
 
Trong thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, ngành công nghiệp ngọc trai phát triển mạnh, tạo ra thu nhập và việc làm cho cư dân vịnh Ba Tư. [[Chiến tranh thế giới thứ nhất]] có tác động nghiêm trọng đến ngành công nghiệp này, rồi nghề này bị xóa xổ do suy thoái kinh tế toàn cầu vào cuối thập niên 1920 và đầu thập niên 1930 cùng với việc phát minh ngọc trai nuôi cấy. Tàn dư của nghề ngọc trai biến mất không lâu sau Chiến tranh thế giới thứ hai khi Chính phủ Ấn Độ đánh thuế nặng ngọc trai nhập khẩu từ Vùng Vịnh. Ngành ngọc trai suy thoái khiến kinh tế Các quốc gia Đình chiến cực kỳ gian khổ.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.uaeinteract.com/history/trad/trd08.asp |tiêu đề=UAE History & Traditions: Pearls & pearling |work=UAEinteract |ngày truy cập=12 February 2016 }}</ref>