Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Người Karen”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
n replaced: : → :, ; → ; using AWB
Dòng 7:
|pop= {{circa}} 7,5 triệu người
|region1= Myanmar
|pop1=6.000.000<ref>{{cite web|url=https://www.cia.gov/library/publications/the-world-factbook/geos/bm.html |title=East Asia/Southeast Asia :: Burma — the World Factbook - Central Intelligence Agency |accessdate=21 February 2017 |deadurl=yes |archiveurl=https://www.webcitation.org/5tygEnlqv?url=https://www.cia.gov/library/publications/the-world-factbook/geos/bm.html |archivedate=4 November 2010 |df= }}</ref>
|region2= Thái Lan
|pop2=1.000.000<ref name="australiankarenfoundation.org.au">{{cite web|url=http://australiankarenfoundation.org.au/karen_people_18.html |title=Karen people |publisher= |deadurl=no |archiveurl=https://web.archive.org/web/20150524024545/http://australiankarenfoundation.org.au/karen_people_18.html |archivedate=24 May 2015 }}</ref>
Dòng 31:
Nhìn chung, các nhóm Karen thường bị nhầm lẫn với bộ lạc Padaung, nổi tiếng với những chiếc nhẫn đeo cổ mà phụ nữ của họ đeo, nhưng họ chỉ là một nhóm phụ của Red Karens (Karenni), một trong những bộ lạc của Kayah ở bang Kayah, Myanmar.
 
Một số người Karen, chủ yếu do Liên minh Quốc gia Karen (KNU) lãnh đạo, đã tiến hành một cuộc chiến chống lại chính quyền trung ương Miến Điện kể từ đầu năm 1949. Mục đích của KNU lúc đầu là độc lập Kể từ năm 1976, nhóm vũ trang đã kêu gọi một hệ thống liên bang thay vì một Nhà nước Karen độc lập. Trong Thái Lan, chúng thường được gọi là Thai: กะเหรี่ยง ; RTGS: kariang 'Karen', trong khi ở Myanmar, có tên là ''Kayin''.
 
== Nguồn gốc ==
Truyền thuyết Karen đề cập đến một "dòng sông chạy cát" mà tổ tiên đã vượt qua. Nhiều Karen nghĩ rằng điều này đề cập đến sa mạc Gobi, mặc dù họ đã sống ở Myanmar trong nhiều thế kỷ. Người Karen tạo thành nhóm dân tộc lớn thứ ba ở Myanmar, sau người Bamar và người Shan.
 
Karen đề cập đến rất nhiều nhóm dân tộc không chia sẻ ngôn ngữ, văn hóa, tôn giáo hoặc đặc điểm vật chất chung. Một bản sắc dân tộc pan-Karen là một sáng tạo tương đối hiện đại, được thành lập vào thế kỷ 19 với việc chuyển đổi một số Karen sang Cơ đốc giáo và được định hình bởi các chính sách và thực tiễn khác nhau của thực dân Anh và giới thiệu Kitô giáo.
Dòng 40:
"Karen" là một nỗi đau của từ Miến Điện Kayin (ကရင်), mà từ nguyên là không rõ ràng. Từ này, vốn ban đầu là một thuật ngữ xúc phạm đề cập đến các nhóm dân tộc không theo đạo Phật, có thể xuất phát từ ngôn ngữ Môn, hoặc là một sự tham nhũng của Kanyan, tên của một nền văn minh đã biến mất.
 
Vào thời tiền thuộc địa, các vương quốc Miến Điện và nói tiếng Mon thấp đã công nhận hai loại chung của Karen là Talaing Kayin (လိုင်း ကရင်), nói chung là những người dân vùng thấp được công nhận là "người định cư ban đầu" và cần thiết cho đời sống triều đình Mon và Karen (ဗမာ ကရင်), đồng bào vùng cao người bị lệ thuộc hay đồng hóa bởi các Bamar.
 
== Phân bố ==