Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Manic Street Preachers”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
AlphamaEditor, Executed time: 00:00:10.7019655 using AWB
Dòng 34:
'''Manic Street Preachers''' là một ban nhạc [[rock]] người xứ Wales thành lập tại [[Blackwood, Caerphilly|Blackwood]] vào năm 1986. Đội hình của ban nhạc gồm có hai người anh em họ [[James Dean Bradfield]] (hát chính, guitar chính) và [[Sean Moore (nhạc sĩ)|Sean Moore]] (trống, bộ gõ và soundscape), cùng với [[Nicky Wire]] (guitar bass, viết ca từ). Họ thường được biết đến với tên gọi là "the Manics". Sau khi phát hành đĩa đơn đầu tay "[[Suicide Alley]]", ban nhạc kết nạp thêm [[Richey Edwards]] đảm nhận vai trò đồng viết ca từ và guitar rhythm. Những album đầu của nhóm mang đậm chất [[punk rock|punk]] rồi sau cùng mở rộng thành âm thanh [[alternative rock]] giàu ý nghĩa hơn, trong khi đó vẫn giữ quan điểm về [[chính trị cánh tả]].<ref>{{chú thích web |url=http://articles.richeyedwards.net/28nov08independent.html |title=Final Farewell for a Cult Hero |website=[[The Independent]] |accessdate=9 tháng 7 năm 2016}}</ref> Lúc đầu ban nhạc kết hợp giữa hình ảnh nhạc [[glam rock|glam]] ái nam ái nữ và thứ ca từ về "văn hóa, sự xa lánh, nỗi buồn chán và tuyệt vọng"; sự kết hợp đó đã đem lại cho họ lượng người hâm mộ trung thành và vị thế được tôn sùng.<ref name="Price"/>
 
Với album đầu tay ''[[Generation Terrorists]]'', Manic Street Preachers từng tuyên bố đây sẽ là "album nhạc rock vĩ đại nhất từ trước đến nay",<ref name="Pitchfork">{{chú thích web |url=http://pitchfork.com/reviews/albums/5073-lipstick-traces-a-secret-history-of-manic-street-preachers/ |title=Manic Street Preachers: ''Lipstick Traces: A Secret History of Manic Street Preachers''|last=Tangari |first=Joe |date=23 tháng 2 năm 2004 |website=[[Pitchfork Media|Pitchfork]] |accessdate=30 tháng 12 năm 2017}}</ref> cũng như hi vọng nhạc phẩm sẽ tiêu thụ "16 triệu bản" trên toàn cầu, sau đó nhóm sẽ giải thể.<ref name="Price"/> Mặc dù album không thể đạt thành tích như kỳ vọng, ban nhạc vẫn tiếp tục kéo dài sự nghiệp của họ. Đội hình của nhóm chỉ còn ba thành viên sau khi Richey Edwards mất tích bí ẩn vào tháng 2 năm 1995.<ref>{{chú thích web |url=http://www.bbc.co.uk/wales/music/sites/manic-street-preachers/pages/richey.shtml |title=BBC Wales – Music – Manic Street Preachers – Richey Edwards |website=[[BBC Cymru Wales|BBC Wales]] |accessdate=9 tháng 7 năm 2017}}</ref> Sau đó ban nhạc vẫn giành được thành công cả về mặt chuyên môn và thương mại bất chấp sự thiếu vắng của anh. Edwards được tuyên bố "khai tử" hợp pháp vào năm 2008.
 
Trong suốt sự nghiệp của mình, The Manics từng trình diễn nhạc sống tại nhiều sân khấu nhạc lớn như [[nhạc hội Glastonbury]], [[T in the Park]], [[V Festival]], [[nhạc hội Reading và Leeds|Reading]], đồng thời giành chiến thắng 7 [[giải NME]], 8 [[giải Q]] và 4 [[giải Brit]].<ref name="brits.co.uk">{{chú thích web |url=http://www.brits.co.uk/artist/manic-street-preachers |title=Manic Street Preachers – BRITs Profile |website=brits.co.uk |accessdate=6 tháng 12 năm 2017 |deadurl=yes |archiveurl=https://web.archive.org/web/20120915053946/http://www.brits.co.uk/artist/manic-street-preachers |archivedate=15 tháng 9 năm 2012}}</ref> Ban nhạc cũng từng nhận hai đề cử [[giải Mercury]] vào các năm 1996 và 1999 bên cạnh một đề cử [[giải Âm nhạc châu Âu của MTV]]. Nhóm còn giành vị trí quán quân tại các bảng xếp hạng của Anh ba lần: hai lần đầu là vào năm 1998 với album ''[[This Is My Truth Tell Me Yours]]'' và đĩa đơn "[[If You Tolerate This Your Children Will Be Next]]", lần còn lại là vào năm 2000 với đĩa "[[The Masses Against the Classes]]".<ref>{{chú thích báo |url=http://news.bbc.co.uk/2/hi/special_report/1999/02/99/brit_awards/264746.stm |title=From Despair to Success |date=12 tháng 2 năm 1999 |website=[[BBC News]] |accessdate=9 tháng 7 năm 2017}}</ref> Họ đã bán được hơn 10 triệu bản album trên toàn thế giới.<ref>{{chú thích web|url= https://www.gigwise.com/features/107075/manic-street-preachers-everything-must-go-interview---new-album-tour|title= Manic Street Preachers: 'These are the last burning flames of rock n' roll'|tác giả=Andrew Trendell|ngày=23 tháng 5 năm 2016|nhà xuất bản=Gigwise.com}}</ref>
Dòng 42:
Manic Street Preachers thành lập vào năm 1986 tại trường phổ thông hỗn hợp Oakdale, [[Blackwood, Caerphilly|Blackwood]], [[Nam xứ Wales]]; tất cả các thành viên của ban nhạc đều theo học ở ngôi trường này. Bradfield và Moore là anh em họ, họ cùng ngủ chung trong nhà của gia đình Bradfield sau khi cha mẹ của Moore ly dị.<ref>{{chú thích web|url=http://www.bbc.co.uk/wales/music/sites/manic-street-preachers/pages/james.shtml |title=BBC Wales - Music - Manic Street Preachers - James Dean Bradfield |publisher=Bbc.co.uk |date=3 tháng 12 năm 2008 |ngày truy cập=28 tháng 2 năm 2017}}</ref> Trong những năm đầu tiên của ban nhạc, Bradfield và Moore - người vốn đã được đào tạo nhạc bài bản - chủ yếu sáng tác nhạc trong khi Wire tập trung vào phần ca từ. Nguồn gốc tên gọi của ban nhạc vẫn còn là ẩn số, nhưng mẩu chuyện thường được kể nhất liên quan đến Bradfield: trong một ngày biểu diễn nhạc nơi công cộng để kiếm tiền tại [[Cardiff]], anh vướng vào một cuộc cãi lộn với một đàn ông (đôi khi được cho là một người vô gia cư);<ref name = "Monikers">{{chú thích báo|url= https://www.independent.co.uk/arts-entertainment/music/features/whats-in-a-band-name-here-are-the-stories-behind-the-monikers-807597.html |title= What's in a Band Name? Here Are the Stories Behind the Monikers – Features – Music – The Independent |date= 11 tháng 4 năm 2008 |website= [[The Independent]] |accessdate= 25 tháng 12 năm 2017}}</ref> ông này đã hỏi móc mỉa anh, "Mày là gì hả thằng trai bao, một thằng lên mặt dạy đời đường phố ẩm ương hả?".<ref name="Price"/>
 
Bassist đầu tiên Flicker (Miles Woodward) đã rời ban nhạc vào đầu năm năm 1988 vì anh này tin rằng ban nhạc đang thoát ly khỏi gốc rễ nhạc punk của họ.<ref name="Price">{{chú thích sách|last= Price |first= Simon |date= ngày 20 Marchtháng 3 năm 1999 |title= Everything (A Book About Manic Street Preachers) |publisher= [[Virgin Books]] |isbn= 0753501392}}</ref> Nhóm tiếp tục hoạt động với ba thành viên khi Wire chuyển chơi guitar sang đánh bass. Năm 1988 họ cho ra đĩa đơn đầu tay mang tên "[[Suicide Alley]]". Mặc cho chất lượng thu nhạc, bản nhạc punk nói về sự thoát ly thực tế của tuổi trẻ đã đem đến một góc nhìn sâu sắc đầu tiên cả về phần guitar của Bradfield và tiếng trống đầy sinh khí của Moore - thứ sẽ biến mất khỏi LP đầu tiên của ban nhạc.<ref name=Discography>{{chú thích web|last=Johnson |first=Andy |url=https://manicsdiscog.wordpress.com/2013/01/10/a1-suicide-alley/ |title=[A1&#93; ‘Suicide Alley’ &#124; Manic Street Preachers: A Critical Discography |website=Manicsdiscog.wordpress.com |date =2013-01- ngày 10 tháng 1 năm 2013 |accessdate =2017-04- ngày 29 tháng 4 năm 2017}}</ref> The Manics dự định sẽ khôi phục cuộc cách mạng cho [[rock and roll]] ở thời điểm mà làng nhạc Anh bị [[shoegazing]] và acid house thống trị. Tạp chí ''[[NME]]'' đã chấm "Suicide Alley" một bài nhận xét nhiệt tình khi trích dẫn lời từ một số xuất bản trên báo của Richey Edwards, "Chúng tôi đang [cố gắng] tách biệt khỏi bất cứ thứ gì trong thập niên '80s nếu có thể". Sau khi phát hành "Suicide Alley", Edwards gia nhập ban nhạc trong vai trò guitar rhythm và đóng góp ca từ cùng với Wire. Edwards còn đảm nhận công việc thiết kế bìa đĩa và bìa nghệ thuật, đồng thời làm cả tài xế chở ban nhạc đi và về trong những buổi diễn.<ref name="Price"/>
 
===Kỷ nguyên của Richey Edwards: ''Generation Terrorists'' đến ''The Holy Bible'' (1992–1995)===
Dòng 54:
Album phòng thu thứ hai của nhóm có tựa ''[[Gold Against the Soul]]'' mang đậm chất nhạc [[grunge]] nhiều tính thương mại hơn khiến nó xa lạ với người hâm mộ và cả chính ban nhạc. Album được phát hành và đón nhận phản hồi trái chiều nhưng vẫn có diễn biển xếp hạng tốt khi giành vị trí thứ 8 trên [[UK Albums Chart]]. Album đại diện cho một thứ âm thanh khác biệt so với album đầu tay của nhóm, không chỉ về ca từ mà còn cả về âm thanh, ban nhạc sử dụng những đoạn riff guitar dài và tiếng trống gây cảm giác hiện đại hơn và vang to trong bản hòa âm cuối cùng của album. Thứ âm thanh này sẽ bị quên lãng trong album kế tiếp của họ và về bản chất ca từ nhóm cũng đã có sự thay đổi, khi Edwards và Wire tránh nhắm tới ngọn lửa chính trị mà thay bằng nỗi u sầu trong nội tâm.<ref name="Price 1999">Price (1999).</ref>
 
Đầu năm 1994, những nỗi khó khăn cá nhân của Edwards trở nên trầm trọng hơn và bắt đầu ảnh hưởng đến các thành viên khác trong nhóm cũng như chính bản thân anh. Anh thừa nhận mình đã vào [[Bệnh viện Priory|viện tâm thần Priory]] để khắc phục những vấn đề của mình và ba thành viên còn lại của nhóm đi biểu diễn tại các nhạc hội để trả tiền viện phí cho anh.<ref name="Price"/> Album kế tiếp của ban nhạc ''[[The Holy Bible]]'' được phát hành vào tháng 8 có lượng đánh giá chuyên môn tốt nhưng doanh số lại kém. Album đã thể hiện một sự thay đổi về âm nhạc và gu thẩm mỹ khác đối với ban nhạc, chủ yếu là bởi sự xuất hiện của bộ quân phục của lính thường/hải quân. Về mặt nhạc tố, ''The Holy Bible'' đánh dấu một sự chuyển mình từ thứ âm thanh [[modern rock]] trong hai album đầu tiên ''Generation Terrorists'' và ''Gold Against the Soul''.<ref name="O'Neil">{{chú thích web |url=http://www.popmatters.com/review/manicstreetpreachers-holybible2005/ |title=Manic Street Preachers: ''The Holy Bible'' –– 10th Anniversary Edition|last=O'Neil |first=Tim |date=19 tháng 5 năm 2005 |website=[[PopMatters]] |accessdate=30 tháng 12 năm 2017}}</ref> Bên cạnh âm thanh [[alternative rock]], album kết hợp thêm nhiều yếu tố từ các dòng nhạc khác như [[hard rock]], [[punk rock|punk kiểu Anh]], [[post-punk]], [[nhạc new wave|new wave]], [[nhạc industrial|industrial]], [[art rock]] và [[gothic rock]].<ref name="Price"/><ref name="Martin">{{chú thích web |url=http://www.nme.com/reviews/7538 |title=NME Reviews – Manic Street Preachers : ''The Holy Bible'' (Tenth Anniversary Edition)|last=Martin |first=Dan |date=12 tháng 9 năm 2005 |website=[[NME]] |accessdate=30 tháng 12 năm 2017}}</ref>
 
Edwards đột ngột mất tích vào ngày 1 tháng 2 năm 1995, thời điểm anh và James Dean Bradfield chuẩn bị bay sang Mỹ trong một chuyến lưu diễn quảng bá.<ref name="Price 1999, pp. 177-178">Price (1999), pp. 177–178.</ref> Trong hai tuần trước khi mất tích, Edwards rút 200 [[bảng Anh|bảng]] mỗi ngày từ tài khoản ngân hàng của mình, tính đến ngày chuyến bay khởi hành theo lịch trình thì tổng số tiền anh đã rút là 2.800 bảng.<ref name="IOS">{{chú thích báo| first=Andy | last=Beckett | pages= | title=Missing street preacher | date=2 tháng 3 năm 1997 | publisher=The Independent on Sunday | url= }}</ref><ref>Price (1999), p. 178.</ref> Anh làm thủ tục rời khỏi Khách sạn Embassy, [[đường Bayswater]], Luân Đôn lúc 7 giờ sáng rồi lái xe đến căn hộ của mình ở [[Cardiff]], xứ Wales. Trong hai tuần kế tiếp anh bị phát hiện rõ ràng hiện diện lần lượt tại văn phòng hộ chiếu [[Newport]]<ref>Price (1999), p. 183.</ref> và trạm xe buýt Newport.<ref name="SP180">Price (1999), p. 180.</ref> Ngày 7 tháng 2, một tài xế taxi từ Newport được cho là đã đón Edwards từ khách sạn King's Hotel tại Newport và lái xe chở anh đi quanh các thung lũng, bao gồm cả Blackwood (mái nhà thời thơ ấu của Edwards). Vị khách xuống xe tại trạm dịch vụ phương tiện Severn View gần làng [[Aust]] và trả phí đi xe 68 bảng bằng tiền mặt.<ref>{{chú thích báo| first=Alex | last=Bellos | pages=T.010 | title=Music: Desperately seeking Richey | date=26 tháng 1 năm 1996|publisher=The Guardian | url= }}</ref>
Dòng 65:
Album đầu tiên không có Edwards góp mặt, ''[[Everything Must Go (album)|Everything Must Go]]'' được phát hành vào ngày 20 tháng 5 năm 1996. Ban nhạc đã lựa chọn cộng tác với nhà sản xuất mới [[Mike Hedges]], chủ yếu nhờ công việc của ông trong đĩa đơn "[[Swimming Horses]]" của [[Siouxsie and the Banshees]] mà Bradfield đánh giá rất cao.<ref name=quiet/> Trước đó Hedges từng được mời làm sản xuất ''The Holy Bible'' nhưng ông đã từ chối.<ref name=quiet>{{chú thích web|url=http://thequietus.com/articles/20332-manic-street-preachers-everything-must-go-interview-simon-price|title=And If You Need An Explanation: Manic Street Preachers interviewed |publisher=Thequietus.com |first=Simon |last=Price |date=2 tháng 6 năm 2016 |accessdate=29 tháng 6 năm 2018}}</ref> ''Everything Must Go'' ra mắt ở vị trí số 2 trên [[UK Albums Chart]], cho đến nay album đã cán mốc ba đĩa Bạch kim tại Anh Quốc và là album thành công nhất của ban nhạc tính đến thời điểm hiện tại, với thành tích trụ vững 103 tuần trong Top 100 và nằm trong Top 5 một năm sau khi phát hành.<ref name="UK charts"/>
 
Album đã tiêu thụ hơn 2 triệu bản trên khắp thế giới và vẫn được coi là một trong những ấn phẩm âm nhạc hay nhất của thập niên,<ref name=Clash>{{chú thích web|url=http://www.clashmusic.com/features/manic-street-preachers-the-complete-guide|title=Manic Street Preachers: The Complete Guide|website=Clashmusic.com|accessdate =2017-04- ngày 29 tháng 4 năm 2017}}</ref> một album kinh điển từ thập niên 1990<ref>{{chú thích web|url=http://www.rocklistmusic.co.uk/nme_writers.htm#ClassicAlbums&Singles|title= NME classic albums and singles|website=Rocklistmusic.com|accessdate =2017-04- ngày 29 tháng 4 năm 2017}}</ref> và thường được bầu chọn trong các cuộc bỏ phiếu ở hạng mục những album hay nhất mọi thời đại của nhiều ấn phẩm.<ref name=NME2>{{chú thích web|url=http://www.rocklistmusic.co.uk/nme_500_greatest_albums_2013.htm|title=500 Greatest Albums Of All Time|website=Rocklistmusic.com|accessdate =2017-04- ngày 29 tháng 4 năm 2017}}</ref>
 
Album phòng thu thứ 5, ''[[This Is My Truth Tell Me Yours]]'' là đĩa nhạc quán quân đầu tiên của ban nhạc tại Anh Quốc, duy trì vị trí đầu bảng xếp hạng trong 3 tuần,<ref>{{chú thích web |url=http://entertainmentghana.mobi/music/view/rel/11205 |title=Manic Street Preachers – This Is My Truth Tell Me Yours |website=entertainmentghana.mobi |accessdate=6 tháng 1 năm 2018 |deadurl=yes |archiveurl=https://web.archive.org/web/20130928090715/http://entertainmentghana.mobi/music/view/rel/11205 |archivedate=28 tháng 9 năm 2013}}</ref> bán được 136.000 bản sao trong tuần đầu tiên và trụ vững tổng cộng 74 tuần trên UK Album Chart.<ref name="UK charts"/> Tựa đề nhạc phẩm là một câu trích dẫn từ một bài phát biểu của [[Aneurin Bevan]], một chính trị gia thuộc [[Công Đảng Anh|Đảng Lao Động]] từ xứ Wales.<ref>{{chú thích web |url=http://www.bbc.co.uk/wales/ps/sites/politicsguide/hall_of_fame/pages/aneurin_bevan.shtml |title=Hall of Fame |website=[[BBC|bbc.co.uk]] |accessdate=12 tháng 6 năm 2017}}</ref> Tựa đề lúc sản xuất của album đơn giản chỉ là ''Manic Street Preachers''. Ảnh bìa album được chụp trên bãi cát [[Morfa Bychan]], [[Porthmadog]], xứ Wales.<ref>{{chú thích báo|date=7 tháng 3 năm 2003 |title=All About ... Black Rock Sands. |newspaper=[[Daily Post (báo)|Daily Post]] |url=http://www.thefreelibrary.com/All+about+...+BLACK+ROCK+SANDS.-a098461358 |accessdate=30 tháng 9 năm 2017}}</ref> Trên toàn cầu album cũng giành vị trí số 1 tại các quốc gia như Thụy Điển và Ireland, đồng thời tiêu thụ hơn 5 triệu bản sao trên khắp thế giới.
 
Với ''This Is My Truth Tell Me Yours'', Manic Street Preachers còn có được đĩa đơn quán quân đầu tiên là "[[If You Tolerate This Your Children Will Be Next]]". Chủ đề của bài hát lấy từ cuộc [[nội chiến Tây Ban Nha]] và chủ nghĩa lý tưởng của những tình nguyện viên xứ Wales gia nhập [[Lữ đoàn Quốc tế]] [[Chính trị cánh tả|cánh tả]] nhằm đầu quân cho [[Đệ Nhị Cộng hòa Tây Ban Nha]] chiến đấu chống lại [[Francisco Franco]]. Tựa đề ca khúc lấy từ poster của Đảng cộng hòa lúc đó với hình một đứa bé bị sát hại bởi những kẻ theo chủ nghĩa quốc xã dưới một bầu trời bom đạn, kèm theo dòng cảnh báo mạnh mẽ "If you tolerate this, your children will be next" ghi ở phía dưới.<ref>{{chú thích web|url=http://www.iwm.org.uk/collections/item/object/1122 |title=Madrid. The 'Military' Practice of the Rebels. If you tolerate this your children will be next. (Art.IWM PST 8661) |website=Iwm.org.uk |date =1999-02- ngày 22 tháng 2 năm 1999 |accessdate =2017-04- ngày 29 tháng 4 năm 2017}}</ref>
 
Năm 2000, nhóm phát hành đĩa đơn ấn bản số lượng có hạn "[[The Masses Against the Classes]]". Mặc dù ít được quảng bá, nhưng đĩa đã bán được 76.000 bản sao trong tuần đầu tiên và giành vị trí quán quân trên [[UK Singles Chart]], đồng thời trở thành đĩa đơn quán quân đầu tiên trong thế kỉ 21 sau khi đánh bại "U Know What's Up" của [[Donell Jones]]. Danh mục của đĩa đơn đã bị xóa (khỏi nguồn cấp bán sỉ) vào ngày phát hành, tuy nhiên ca khúc vẫn trụ vững 9 tuần trên UK chart.<ref name="UK charts"/>
 
Năm 2001, The Manics trở thành ban nhạc rock phương Tây nổi tiếng đầu tiên biểu diễn tại [[La Habana|Havana]], Cuba—nơi nhạc rock bị chính quyền cộng sản địa phương cấm lưu hành<ref>{{chú thích báo|url=https://www.independent.co.uk/arts-entertainment/music/news/the-rolling-stones-landmark-cuba-concert-wasnt-that-historical-according-to-manic-street-preachers-a6955106.html|tiêu đề=The Rolling Stones 'landmark' Cuba concert wasn't that historic, say Manic Street Preachers|tác giả=Jack Shepherd|nhà xuất bản=[[The Independent]]|ngày=27 tháng 3 năm 2016|ngày truy cập=1 tháng 5 năm 2016}}</ref> (tại [[Nhà hát Karl Marx]]) và có dịp gặp gỡ tổng thống [[Fidel Castro]]. Buổi hòa nhạc và chuyến đi của nhóm đến Cuba được ghi lại thành phim tài liệu và phát hành dưới dạng DVD mang tên ''[[Louder Than War]]''. Tại buổi hòa nhạc này, ban nhạc đã tiết lộ nhiều ca khúc từ album thứ 6 sắp ra mắt của họ, ''[[Know Your Enemy (album)|Know Your Enemy]]'' — phát hành vào ngày 19 tháng 3. Sự lên án chính trị cánh tả xuất hiện trong nhiều bài hát của album, như "Baby Elián" khi họ bàn luận về mối quan hệ căng thẳng giữa Hoa Kỳ và Cuba giống như trong vụ [[Elián González]], một chủ đề nóng xung quanh việc phát hành album.<ref name="The Scotsman">{{chú thích web|url=http://www.ianwatsonuk.com/manics.html|title=Nicky Wire (Manic Street Preachers)|accessdate= 29 tháng 12 năm 2016}}</ref>
Dòng 91:
 
==Phong cách nhạc==
Âm nhạc của Manic Street Preachers được miêu tả đa dạng như [[alternative rock]],<ref>{{chú thích tạp chí|last=Ferguson |first=Tom |date=July 2006 |title=Solo on Manic Street |magazine=[[Billboard (tạp chí)|Billboard]] |volume=118 |issue=28 |page=33 |url=https://books.google.com/books?id=NBYEAAAAMBAJ&pg=PA33&dq=%22manic+street+preachers%22+%22alternative+rock%22&hl=en&sa=X&ei=2RB-VMKhCsP6ygPc_YD4Aw&ved=0CDQQ6AEwAw#v=onepage&q=%22manic%20street%20preachers%22%20%22alternative%20rock%22&f=false |accessdate=ngày 25 Decembertháng 12 năm 2014}}</ref> [[hard rock]]<ref name=AllMusic2>{{chú thích web |url=http://www.allmusic.com/artist/manic-street-preachers-mn0000954964/biography |title=Manic Street Preachers|last=Erlewine |first=Stephen Thomas |authorlink=Stephen Thomas Erlewine |website=[[AllMusic]] |accessdate=25 tháng 12 năm 2014}}</ref> [[punk rock]],<ref name="Price"/> [[glam rock]]<ref>{{chú thích web |url=http://www.furious.com/perfect/manicstreetpreachers.html|title=Perfect Sound Forever – Manic Street Preachers|work=Perfect Sound Forever|accessdate=2 tháng 12 năm 2015}}</ref> và [[pop rock]].<ref>{{chú thích web | url=http://exclaim.ca/music/article/manic_street_preachers_announce_futurology_lp | title=Manic Street Preachers Prepping New 'Futurology' LP | publisher=[[Exclaim!]] | date=12 tháng 11 năm 2013 | accessdate=13 tháng 3 năm 2016|author=Hughes, Josiah}}</ref><ref>{{chú thích web | url=http://www.popmatters.com/post/128805-manic-street-preachers-and/ | title=Manic Street Preachers and "Mass Communication" | publisher=[[PopMatters]] | date=3 tháng 8 năm 2010 | accessdate=13 tháng 3 năm 2016 | author=Johnson, Andy}}</ref> Theo trang tiểu sử nhóm của [[AllMusic]], ban nhạc đã tự làm mới mẻ mình sau [[the Clash]] và [[Sex Pistols]], nhằm khôi phục cuộc cách mạng cho nhạc rock "ở thời điểm mà làng nhạc Anh bị thống trị bởi các dòng nhạc [[shoegazing]] [[Nhạc trance|trance]] và nhạc [[acid house]] ảo giác vô danh."<ref name=AllMusic2/>
 
== Thành viên ==