Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Cô Vân Hoài Trang”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
 
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
'''Cô Vân Hoài Trang''' (zh. 孤雲懷奘, ja. ''koun ejō''), 1198-1280, là một vị Thiền sư Nhật Bản, Tổ thứ hai của tông Tào Ðộng sau [[Ðạo Nguyên Hi Huyền]] (zh. 道元希玄, ja. ''dōgen kigen''). Kế thừa Sư và cũng là người trụ trì thứ ba của Vĩnh Bình tự (zh. 永平寺, ja. ''eihei-ji'') là Thiền sư [[Triệt Thông Nghĩa Giới]] (zh. 徹通義介, ja. ''tettsū gikai'').
 
Các tài liệu không ghi rõ thời niên thiếu, chỉ biết là Sư sinh trưởng tại Kinh Ðô (ja. ''kyōto'') và sớm được dạy dỗ theo nhà Phật trên núi [[Tỉ Duệ sơn|Tỉ Duệ]] (zh. 比叡山, ja. ''hiei''). Năm lên 17 (1215), Sư Thụ giới cụ túc và năm 20 tuổi thụ [[Bồ Tát giới]] tại chùa Diên Lịch (zh. 延曆寺, ja. ''enryaku-ji'') trên núi Tỉ Duệ. Nơi đây, Sư tham học Phật pháp với một pháp sư tên là Viên Năng (zh. 圓能, ja. ''ennō'') và tương truyền rằng, Sư đã tiếp xúc với tất cả các tông phái đạo Phật đương thời như [[Thiên Thai tông]] (zh. 天台宗, ja. ''tendai-shū''), [[Chân ngôn tông]] (zh. 真言宗, ja. ''shingon-shū'') và cả [[Tịnh độ tông]] (zh. 淨土宗, ja. ''jōdō-shū''). Nhưng tất cả những dạng tu tập này đều không thoả mãn được lòng quyết tâm đạt đạo của Sư. Thiền sư [[Oánh Sơn Thiệu Cẩn]] (zh. 瑩山紹瑾, ja. ''keizan jōkin'')—môn đệ chính của Sư—ghi lại lời khuyên của bà mẹ khi Sư về thăm bà:
:“Mẹ không cho con xuất gia tu hành để đạt danh vọng và liên hệ với dòng dõi quý tộc. Con không nên tu tập vì tham vọng. Mẹ rất mong rằng, con tu học khổ hạnh, choàng ca-sa đen với nón tre trên lưng và tự đi đứng một mình, thay vì ngồi trên kiệu để người vác.”
 
Ngay sau khi nghe những lời dạy này, Sư không bước chân đến núi Tỉ Duệ nữa, ban đầu tu tập theo Tịnh độ tông, sau gia nhập học thiền (khoảng 1222/23) với Giác Yển (zh. 覺晏, ja. ''kakuan'') thuộc Nhật Bản Ðạt-ma tông (zh. 日本達磨宗, ja. ''nihon daruma-shū''), một môn đệ của [[Ðại Nhật Năng Nhẫn]] (zh. 大日能忍, ja. ''dainichi nōnin''). Nhân lúc đọc ''[[Thủ-lăng-nghiêm kinh]]'' (zh.首楞嚴經, sa. ''śūraṅgama-sūtra'', ja. ''shuryōgongyō''), Sư tỉnh ngộ chút ít và cho rằng, kinh nghiệm Giác ngộ này chính là diệu giác (ja. ''myōkaku'') của Phật Thích-ca. Thời gian tu tập của Sư nơi Nhật Bản Ðạt-ma tông kéo dài khoảng sáu năm và sau đó, Sư yết kiến Thiền sư Ðạo Nguyên (1928) tại Kiến Nhân tự (zh. 建仁寺, ja. kenninji) ở Kinh Ðô. Trong một cuộc [[pháp chiến]] (zh. 法戰, ja. ''hōssen'') sôi nổi, Ðạo Nguyên thừa nhận kinh nghiệm giác ngộ của Sư nhưng chính Sư cũng thấy rõ kinh nghiệm thâm sâu của Ðạo Nguyên vượt xa mình. Vì vậy, Sư quì lạy, lễ bái Ðạo Nguyên làm thầy. Ðạo Nguyên khuyên Sư đợi một thời gian nữa hãy đến.