Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Càn Long”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Dòng 108:
 
===Chính sách đối nội===
Càn Long là vị hoàngHoàng đế rất chuyên tâm đến triều chính, đã xóa bỏ chế độ chính trị hà khắc của [[Ung Chính]], thay vào đó là chính sách khoan dung độ lượng. Ông giải phóng tất cả những người trong tông thất bị cầm tù, những người chú, bác bị bức hại mà chết đều được ghi trong ngọc điệp, phong anh em mình làm thânThân vương; thời Ung Chính bắt bớ giam cầm những văn sĩ vô tội, gia tộc của họ bị đày tới biên giới làm nô lệ, nay đều được ông trả về quê cũ. Từ khi cơ cấu quyền lực tối cao chỉ sau hoàngHoàng thượngđếquân[[Quân cơ xứ]] được thành lập, hàng ngày Càn Long đều đích thân tới quânQuân cơ xứ để xử lý việc triều chính. Sáng đi sớm tối về muộn, buổi tối cũng thường xuyên triệu kiến các quânQuân cơ đại thần, chính vì vậy mà từ thời ông, quânQuân cơ xứ dần dần hình thành nên chế độ trực đêm, sau này sợ một người không xử lý nổi, nên vào mỗi sáng sớm còn có 1 người tới giúp đỡ. Bên cạnh đó, Càn Long cũng quản lý rất nghiêm khắc hoạn quan và ngoại thích, trước hết là cấm hoạn quan học hành, xóa bỏ nộiNội thư đường vốn là nơi đọc sách, học chữ của hoạn quan; tiếp đến phàm những hoạn quan là sai tấu sự thì đều đổi họ là Vương, như vậy sẽ khiến các quan bên ngoài khó mà phân biệt được, từ đó tránh để họ câu kết với nhau.
 
Về mặt phát triển xã hội, Càn Long chủ yếu kế thừa chế độ kinh tế và chính trị của Khang HyHi và Ung Chính, đặc biệt là thực thi triệt để các chính sách như "Cảicải thổ quy lưu", "than định nhập mẫu" và "hỏa hao quy công". Những chính sách này đã đưa triều Thanh lên đỉnh cao của sự phát triển. Đất nước dưới thời Càn Long bắt đầu bước vào giai đoạn cực thịnh.
 
===Bản sắc chính trị Trung Quốc và chính sách biên cương===
Dòng 162:
 
=== Biên soạn "Tứ Khố Toàn Thư" ===
'''''Tứ khố toàn thư''''' (tiếng Trung: 四庫全書) là bách khoa lớn nhất trong lịch sử phong kiến Trung Quốc.<sup>[[Tứ khố toàn thư#cite%20note-1|[1]]]</sup> Nó được Hoàng đế [[Càn Long]] [[nhà Thanh]] giao cho 361 học giả, đứng đầu là [[Kỉ Quân]] và Lục Tích Hùng, biên soạn trong khoảng thời gian từ 1773 đến 1782, nó đã trải qua vô vàn sóng gió cùng với máu tanh vì trong thời gian này chế độ vua chúa nhà [[Nhànhà Thanh|Thanh]]<nowiki/> bắt bớ gắt gao những người có tư tưởng phản Thanh phục Minh dù là trong thơ ca. Với 4 phần lớn là Kinh (經), Sử (史), Tử (子), Tập (集), ''Tứ khố toàn thư'' đã tập hợp trên 10.000 bản thảo từ các bộ sưu tập của những triều đại phong kiến Trung Quốc (kể cả 3.000 bản thảo bị đốt vì nghi có tư tưởng chống Thanh) thuộc tất cả các lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, lịch sử, triết học và văn học nghệ thuật. Tổng cộng bộ sách này có 79.897 phần<sup>[[Tứ khố toàn thư#cite%20note-2|[2]]]</sup> nằm trong 36.381 quyển, 2,3 triệu trang sách và khoảng 800 triệu chữ.<sup>[[Tứ khố toàn thư#cite%20note-%3A1-3|[3]]][[Tứ khố toàn thư#cite%20note-4|[4]]][[Tứ khố toàn thư#cite%20note-5|[5]]]</sup>
 
Có 16 người được giao chịu trách nhiệm chính để biên soạn ''Tứ khố toàn thư''. Ngoài ra còn có 60 quan lại và những nhân vật trí thức tiên tiến cùng tham gia: Chất Trang Thân vương [[Vĩnh Dung]], Đại học sĩ [[Lưu Thống Huân]], Vũ Mẫn. Sau 15 năm trời, bộ ''Tứ khố toàn thư'' được chép xong, đến năm 1793 công việc biên soạn mới hoàn toàn kết thúc. ''Tứ khố toàn thư'' được chia làm ba loại: sao chép, khắc in và tồn mục. "Tồn mục" là những sách mà vua Càn Long cho là xúc phạm đến triều đình Mãn Thanh, bất lợi cho sự thống trị của triều đình, chỉ được giữ lại tên sách trong "Tứ khố toàn thư". "Tứ khố toàn thư" được chép làm 7 bản chính, mỗi bản gồm 36.275 quyển, được cất giữ tại Văn Hàm Cáccác, Văn Nguyên Cáccác, Văn Tố Cáccác, Văn Lan Cáccác. Một bản dự trữ được cất tại Hàn Lâm viện tại Bắc Kinh. Ngày nay, chỉ còn bản được lưu trữ tại Văn Tân Cáccác ở Sơn trang nghỉ mát của vua [[Càn Long]] còn nguyên vẹn.
 
Hoàng đế Càn Long hạ lệnh làm thành bảy7 bản sao của ''Tứ khố toàn thư''. Bốn bản đầu tiên là cho Hoàng đế và được giữ ở phía bắc. Hoàng đế Càn Long xây dựng những thư viện đặc biệt cho họ. Các bản sao được đặt tại Tử Cấm Thành, [[Vườn Viên Minh]], [[Thẩm Dương]] và Thừa Đức. Ba bản còn lại được gửi về phía nam. Chúng được gửi vào các thư viện trong các thành phố Hàng Châu, Trấn Giang và [[Dương Châu]].<sup>[[Tứ khố toàn thư#cite%20note-%3A0-6|[6]]]</sup> Tất cả bảy thư viện cũng nhận được bản sao của bách khoa toàn thư hoàngHoàng gia năm 1725 ''Cổ kim đồ thư tập thành''.
 
Bản sao lưu giữ trong Vườn Viên Minh đã bị phá hủy trong [[Chiến tranh Nha phiến lần thứ Hai|Chiến tranh Nha phiến lần thứ 2]] vào năm 1860. Trong cuộc chiến với quân Anh và Pháp, bản sao Cung điện Mùa hè cũ đã bị đốt cháy. Hai bản sao lưu giữ ở Trấn Giang và Dương Châu đã hoàn toàn bị phá hủy trong khi bản sao lưu giữ tại Hàng Châu chỉ khoảng 70 đến 80 phần trăm bị phá hủy, trong cuộc nổi loạn Thái Bình Thiên Quốc. Bốn bản còn lại bị một số thiệt hại trong chiến[[Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ hai|Chiến tranh Trung - Nhật lần thứ 2]]. Ngày nay, những bản sao này có thể được đặt tại Thư viện Quốc gia Trung Quốc ở Bắc Kinh, Bảo tàng Cung điện Quốc gia ở Đài Bắc, Thư viện Cam Túc ở Lan Châu và Thư viện Chiết Giang ở Hàng Châu.
 
===Đốt sách và chỉnh sửa nội dung===
Dòng 186:
 
===Phật giáo Tây Tạng===
[[File:George-Leonard-Staunton-et-al-An-authentic-account-of-an-embassy-from-the-king-of-Great Britain-to-the-emperor-of-China MG 0725.tif|thumb|Tranh khắc họa hoàngHoàng đế Càn Long]]
[[File:Qianlong Emperor hunting trip.jpg|thumb|left|Càn Long trong một chuyến đi săn]]
Sự kết hợp lâu dài của quyền cai trị Mãn Châu với Bồ Tát [[văn-thù-sư-lợi]] và sự quan tâm riêng của ông đối với Phật giáo Tây Tạng đã tạo nên sự tin tưởng cho sự bảo trợ của Càn Long về nghệ thuật Phật giáo Tây Tạng và sự bảo trợ các bản dịch kinh điển Phật giáo. Các tài khoản trong hồ sơ triều đình và các nguồn ngôn ngữ Tây Tạng khẳng định cam kết cá nhân của mình. Ông nhanh chóng học đọc ngôn ngữ Tây Tạng và nghiên cứu văn bản Phật giáo một cách chắc chắn. Niềm tin của ông được phản ánh trong hình ảnh Phật giáo Tây Tạng về lăng mộ của ông, có lẽ là biểu hiện cá nhân và riêng tư nhất về cuộc đời của hoàng đế. Ngài ủng hộ Giáo hội Vàng (giáo phái Phật giáo Tây Tạng [[cách-lỗ-phái]]) để "duy trì hòa bình giữa người Mông Cổ" vì người Mông Cổ là tín đồ của [[đạt-lai-Lạt-ma]] và [[ban-thiền-Lạt-ma]] của Giáo hội Vàng, và Hoàng đế Càn Long đã giải thích điều này trong Ung Hòa Cung. Bắc Kinh trên một bia có tên "Lama Shuo" (trên Lamas) vào năm 1792, và ông cũng nói rằng "chỉ đơn thuần là theo đuổi chính sách mở rộng tình cảm của chúng ta cho kẻ yếu đuối." dẫn ông đến bảo trợ Giáo hội Vàng. Mark Elliott kết luận rằng những hành động này mang lại lợi ích chính trị nhưng "liên kết chặt chẽ với đức tin cá nhân của ông ấy."
Dòng 202:
Càn Long là một người tích cực trong việc xây dựng cung điện, hoa viên. Trong những ngọn đồi phía tây bắc của Bắc Kinh, ông mở rộng dinh thự được gọi là "Vườn của độ sáng hoàn hảo" (Yuanmingyuan) (bây giờ được gọi là Cung điện mùa hè cũ) được xây dựng bởi cha mình. Cuối cùng, ông đã thêm hai dinh thự mới, "Vườn mùa xuân vĩnh cửu" và "Vườn mùa xuân thanh lịch". Theo thời gian, Cung điện mùa hè cũ sẽ rộng 860 mẫu Anh (350 ha), lớn hơn năm lần so với Tử Cấm Thành. Để kỷ niệm sinh nhật lần thứ 60 của mẹ mình, [[Sùng Khánh Hoàng thái hậu]], Càn Long đã ra lệnh xây cho một hồ ở "Vườn Ripples" (Qingyiyuan) (nay gọi là [[Di Hòa viên]]), nạo vét kĩ lưỡng, đặt tên là hồ Côn Minh, và cải tạo một dinh thự trên bờ phía đông của hồ.
 
Hoàng đế Càn Long cũng mở rộng cungCung điện mùa hè hoàngHoàng gia ở [[Nhiệt Hà]], vượt ra ngoài [[Vạn Lý Trường Thành]]. Nhiệt Hà cuối cùng trở thành kinh đô thứ ba và ở đây, Càn Long đã tổ chức triều đình với nhiều quý tộc Mông Cổ khác nhau. Hoàng đế cũng dành thời gian tại [[Hoa Mộc Lan|khu đất săn bắn]] ở phía bắc Nhiệt Hà, nơi ông tổ chức cuộc săn bắn hoàng gia mỗi năm.
 
====Phong cách châu Âu====
Dòng 210:
Trong triều đại của Hoàng đế Càn Long, Minaret Emin được xây dựng ở [[Turfan]] để tưởng nhớ Emin Khoja, một thủ lĩnh người Duy Ngô Nhĩ từ Turfan, người đã đệ trình lên Đế quốc Thanh như một chư hầu để được hỗ trợ từ nhà Thanh để chống lại Zunghars.
 
===Hậu duệ của hoàngHoàng tộc nhà Minh===
Năm 1725, Hoàng đế Yongzheng ban tặng một tước hiệu di sản cho một hậu duệ của Chu Zhilian, một hậu duệ của hoàng tộc triều đại nhà Minh. Chu cũng được chính quyền nhà Thanh trả tiền để thực hiện các nghi lễ tại lăng mộ nhà Minh và đưa Biểu ngữ trắng đồng bằng của Trung Quốc vào Tám biểu ngữ. Zhu đã được truy tặng danh hiệu "Hầu tước ân sủng mở rộng" vào năm 1750, và danh hiệu này đã được truyền lại cho 12 thế hệ trong gia đình ông cho đến cuối triều đại nhà Thanh.
 
Dòng 237:
Trong những năm cuối đời, Càn Long bắt đấu sống hưởng lạc, xa hoa sau khi đã đạt được mọi quyền lực và vinh quang. Ông tỏ ra tự mãn, và bắt đầu đặt niềm tin vào các quan chức tham nhũng, đặc biệt là [[Hòa Thân]].
 
Vì Hòa Thân là quan lại có quyền hành cao nhất và được Càn Long ưa chuộng nhất vào thời điểm đó, việc quản trị đất nước bị bỏ lại trong tay ông ta, trong khi hoàngHoàng đế sống hưởng lạc với những thú vui như nghệ thuật, xa hoa và văn học. Khi Hòa Thân sau này bị con của Càn Long là vua [[Gia Khánh]] thanh trừng, chính quyền nhà Thanh phát hiện ra rằng tài sản cá nhân của Hòa Thân vượt quá ngân quỹ cạn kiệt của đếĐế quốc, lên tới 900 triệu bạc, tổng cộng 12 năm thặng dư của kho bạc của triều đình nhà Thanh.
 
Càn Long bắt đầu thời gian làm vua với khoảng 33,95 triệu đồng bạc trong kho bạc. Vào thời điểm trị vì, khoảng năm 1775, ngay cả khi cắt giảm thuế, thặng dư kho bạc vẫn đạt 73,9 triệu lượng bạc, một kỷ lục chưa từng có tính từ những người tiền nhiệm của ông, các hoàngHoàng đế Khang HyHi và Ung Chính, cả hai đều đã thực hiện các chính sách cắt giảm thuế đáng kể.
 
Tuy nhiên, do nhiều yếu tố như nạn tham ô của các quan lại, các cuộc tuần du thường xuyên ở phía nam, các công trình xây dựng cung điện khổng lồ, nhiều cuộc viễn chinh quân sự cũng như lối sống xa hoa của riêng mình, tất cả những chi phí này là 150,2 triệu. Điều này, cùng với tuổi cao niên của ông và thiếu các cải cách chính trị, đã khiến nhà Thanh từ giai đoạn thịnh trị đã bắt đầu suy thoái vào những năm cuối cuộc đời của ông.
Dòng 246:
Vào tháng 10 năm 1795, Càn Long chính thức thông báo rằng vào mùa xuân năm sau, ông sẽ tự nguyện thoái vị ngai vàng và chuyển ngai vàng cho con trai mình. Người ta nói rằng Càn Long đã thực hiện một lời hứa trong năm của ông còn tại vị là sẽ không ở ngôi lâu hơn ông nội của ông, Hoàng đế Khang Hi, người đã ở trên ngai vàng đến 61 năm.
 
Hoàng đế Càn Long đã chính thức thoái vị ở tuổi 85, vào năm thứ 60 ở triều đại của ông, trao lại ngôi vua cho con trai thứ 15 của ông là NgungVĩnh Diễm, tức vua [[Gia Khánh]], vào năm 1795. Trong bốn năm tiếp theo, ông giữ danh hiệu "Taishang Huang (hoặc Thái Thượng hoàng)" (太上皇), mặc dù trên thực tế ông tiếp tục nắm giữ quyền lực và Gia Khánh chỉ có vai trò biểu tượng. Ông không bao giờ chuyển đến các phòng hưu trí của mình trong khu vườn Càn Long. Ông mất vào tháng 2 năm 1799 ở tuổi 87.
 
== Thân thế tranh luận ==
Dòng 252:
Một trong những truyền thuyết phổ biến nhất về thân thế của Càn Long lưu truyền trong các câu chuyện dân gian, các bộ tiểu thuyết, dã sử chính là giả thuyết Càn Long là con cháu dòng họ Trần ở [[Hải Ninh]], [[Chiết Giang]].
 
Chuyện kể rằng, vào ngày [[13 tháng 8]] năm Khang HyHi thứ 50, tức năm 1711, phủ của Ung Thân Vương, người sau này trở thành Hoàng đế [[Ung Chính]], trở nên nhộn nhịp vui vẻ lạ thường. Hôm đó, Hoàng tử Dận Chân có thêm một đứa con. Cùng trong ngày hôm đó, nhà họ Trần ở Hải Ninh cũng có thêm một đứa trẻ. Nhà họ Trần ở đây chính là chỉ [[Trần Thế Quán]], hay còn gọi là ''"Trần Các Lão"'', một người từng làm quan dưới thời Khang Hy và có quan hệ cực kỳ mật thiết với Hoàng tử thứ 4, Ung Thân vương Dận Chân (tức Ung Chính Hoàng đế).
 
Lúc bấy giờ, Vương phi của Hoàng tử Dận Chân và vợ của Trần Các Lão đều mang thai. Không lâu sau đó, cả hai người cùng sinh vào một ngày, Vương phi của Ung Chính sinh ra một cách cách còn vợ của Trần thì sinh ra một bé trai. Ung Chính nghe nói con trai của Trần Các Lão sinh cùng ngày với cách cách của mình mới lệnh cho Trần mang con trai vào Vương phủ của mình để xem mặt. Lệnh của Vương gia không thể không nghe, Trần Các Lão không còn cách nào khác đành phải mang con của mình đưa vào Vương phủ. Tuy nhiên, khi đứa bé được trả về cho nhà họ Trần thì ban đầu là con trai giờ lại hóa thành con gái. Đứa con trai nhà họ Trần bị đánh tráo vào phủ Ung Chính sau này chính là vua Càn Long.
Dòng 281:
Qua hỏi han biết Hòa Thân tuy nhà nghèo nhưng chịu khó học hành, tinh thông 4 loại văn tự là Mãn, Hán, Mông Cổ, Tây Tạng. Càn Long bèn thăng Hòa Thân từ một chân khiêng kiệu lên đến chức tổng quản trong cung.
 
Hòa Thân lanh lợi khéo léo, lời nói dễ nghe, làm việc mau mắn, tính nết hòa nhã rất là vừa ý Càn Long. Hễ Càn Long thích cô gái nào là Hòa Thân tìm mọi giá để đưa dâng hoàngHoàng thượng. Hầu như ngày nào không gặp được Hòa Thân là Càn Long không chịu được, sự sủng ái thậm chí còn hơn cả Hán Ai Đế đối với Đổng Hiền xưa. Hoàng đế Càn Long là người tôn sùng Phật giáo, rất tin vào thuyết sinh tử luân hồi, muốn thi ân bố đức Hòa Thân để báo đáp nàng phi trong tiền kiếp. Tựa hồ Càn Long nghĩ rằng sủng ái Hòa Thân một phần sẽ giảm nhẹ nỗi bi thương với nàng phi ngày xưa được một phần. Hòa Thân từ một thịThị vệ được Càn Long đưa lên làm Hộ bộ thịThị lang, một nơi rất dễ kiếm tiền. Hòa Thân ham thích châu báu, vơ vét của dân, càng lúc càng lộng hành không lâu sau bị các quanQuan ngự sử liên tiếp dâng sớ hạch tội nhưng Càn Long chỉ để ngoài tai. Ngay hoàngHoàng thái tử GiaVĩnh KhánhDiễm, quanQuan ngự sử Tiền Phong, đại thần Lưu Dung nhiều lần hợp lực chặn đứng thế lực Hòa Thân nhưng đều bị Hòa Thân hóa giải.
 
===Sự ưu ái của Càn Long đếĐế dành cho Hoà Thân===
 
Trong hơn 20 năm, Hòa Thân được thăng chức 47 lần. Cả đời Hòa Thân từng giữ và kiêm nhiệm đến hơn 6 chức quan trọng yếu. “Sở văn lục” viết: “Đời Thanh Cao Tông Càn Long Hoà Thân làm quan, quyền thế khuynh đảo thiên hạ. Kết bè kết đảng, đi lệch chính đạo mà kẻ sĩ trong triều chẳng dám ngăn trở”.
 
Khi Hòa Thân được thăng lên đến chức Quân cơ đại thần, được phong tước Văn Hoa điện Đại học sĩ, hàm Nhất đẳng công, thì em trai là [[Hòa Lâm (nhà Thanh)|Hòa Lâm]] cũng thăng quan tiến chức như diều gặp gió, được phong Binh bộ Thị lang rồi Công bộ Thượng thư, được Càn Long chọn làm thầy của [[Phúc Khang An]].
 
Trong mắt mọi người, gia đình Hòa Thân đúng là một nhà với Hoàng đế Càn Long. Bởi vậy mà hầu hết đại thần trong triều là phe cánh của y. Của cải chứa trong nhà Hòa Thân còn nhiều hơn trong Hoàng cung, nhiều gia nô của họ Hòa cũng mặc sức hoành hành, không ai dám nói.
===Gia ân của Càn Long đếĐế dành cho đại gian thần Hoà Thân===
Có giả thuyết cho rằng : Càn Long đế dù biết [[Hoà Thân]] là đại tham quan nhưng vẫn làm ngơ xem như không biết mặc cho y ra sức vơ vét quốc khố, mua quan bán tước, khuynh đảo chính trường , để đến thời [[Gia Khánh|Gia Khánh Đế]] đế truy thu lại toàn bộ số của cải của y sung vào quốc khố.
 
Dù vậy Càn Long vẫn không quên toan tính cho đứa con độc nhất của sủng thần là Phong Thân Ân Đức, Càn Long đã đem thậpThập côngCông chúa, đứa con gái út được nhàCàn vuaLong yêu mến nhất ( tức [[Cố Luân Hòa Hiếu Công chúa]]) gả cho con trai Hòa Thân với mục đích giữ lại huyết mạch cho y,về. Về sau đến tháng 1 năm [[Gia Khánh]] Nguyênnguyên niên (tức 2/1799), tháiThái thượngThượng hoàng Càn Long băng hà, không lâu sau [[Gia Khánh]] Đế đã bãi nhiệm và tống giam Hoà thânThân, sau 1 thời gian xét xử, thẩm vấn đến ngày 22/2/1799, Hoà thânThân được ban cho tự vẫn. Còn về con trai y và gia quyến đều được thả mạng, hơn thế nữa vì nể tình của Cố Luân côngHòa Hiếu Công chúa, [[Gia Khánh]] đếĐế chẳng những đã giữ lại tính mạng cho Phong Thân Ân Đức, mà còn bảo lưu chức vị Ngạch phò cho y. vềVề sau vì lo cho hạnh phúc cả đời của em gái, nhà vua đã quyết định ban Phúccon của Phong Thân Ân Đức làm con thừa tự cho côngCông chúa. Đây âu cũng chính là gia ân cuối cùng của Càn Long đế dành cho sủng thần của mình vậy.
Dù vậy Càn Long vẫn không quên toan tính cho đứa con thừa tự độc nhất của sủng thần là Phong thân Ân Đức,
Càn Long đã đem thập công chúa,đứa con gái út được nhà vua yêu mến nhất là [[Cố Luân Hòa Hiếu Công chúa]] gả cho con trai Hòa Thân với mục đích giữ lại huyết mạch cho y,về sau đến tháng 1 năm [[Gia Khánh]] Nguyên niên (tức 2/1799) thái thượng hoàng Càn Long băng hà, không lâu sau [[Gia Khánh]] đã bãi nhiệm và tống giam Hoà thân,sau 1 thời gian xét xử,thẩm vấn đến ngày 22/2/1799 Hoà thân được ban cho tự vẫn.Còn về con trai y và gia quyến đều được thả mạng, hơn thế nữa vì nể tình của Cố Luân công chúa, [[Gia Khánh]] đế chẳng những đã giữ lại tính mạng cho Phong Thân Ân Đức, mà còn bảo lưu chức vị phò mã cho y. về sau vì lo cho hạnh phúc cả đời của em gái, nhà vua đã quyết định ban Phúc Ân làm con thừa tự cho công chúa.Đây âu cũng chính là gia ân cuối cùng của Càn Long đế dành cho sủng thần của mình vậy.
 
== Lăng mộ ==