Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Thục Gia Hoàng quý phi”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 9:
| con cái = [[Vĩnh Thành (hoàng tử)|Vĩnh Thành]]<br>[[Vĩnh Tuyền]]<br>Hoàng cửu tử<br>[[Vĩnh Tinh]]
| thông tin con cái = ẩn
| tước hiệu = [Cách cách; 格格]<br>[Quý nhân; 人]<br>[Gia tần; 嘉嫔]<br>[Gia phi; 嘉妃]<br>[Gia Quý phi; 嘉妃]<br>[Hoàng quý phi; 皇妃]<br>(truy phong)
| thụy hiệu = <font color = "grey">Thục Gia Hoàng quý phi</font><br>(淑嘉皇妃)
| cha = [[Kim Tam Bảo]]
| sinh = {{ngày sinh|1713|7|25}}
Dòng 17:
| nơi an táng = Địa cung của [[Dụ lăng]]
}}
'''Thục Gia Hoàng quý phi''' ([[chữ Hán]]: 淑嘉皇妃, [[25 tháng 7]], [[1713]] - [[15 tháng 11]], [[1755]]), [[Kim Giai thị]] (金佳氏), [[Bát kỳ|Chính Hoàng kỳ Bao y]], là một [[phi tần]] người gốc [[Triều Tiên]] của [[Thanh Cao Tông]] Càn Long Đế.
 
== Tiểu sử ==
Dòng 67:
Năm Càn Long thứ 20 ([[1755]]), ngày [[15 tháng 11]] (âm lịch), Gia Quý phi Kim thị lâm trọng bệnh và qua đời, hưởng niên 42 tuổi.
 
Ngày [[16 tháng 11]] cùng năm, theo ý chỉ của [[Sùng Khánh Hoàng thái hậu]], Gia Quý phi được truy phong thành [[Hoàng quý phi]]. Ngày [[17 tháng 11]], sách truy [[thụy hiệu]] là '''Thục Gia Hoàng quý phi''' (淑嘉皇妃)<ref>乾隆二十年十一月 ○嘉贵妃薨。谕曰、钦奉皇太后懿旨。嘉贵妃患病薨逝。著追封皇贵妃。钦此。一切丧仪。该衙门察例敬谨举行。丙戌。册谥嘉贵妃。为淑嘉皇贵妃。</ref>, sang [[tháng 12]] thì khiển quan tế cáo [[Thái miếu]] và [[Phụng Tiên điện]]<ref>皇朝文獻通考 (四庫全書本)/卷103: 乾隆二十年十二月丁巳以冊諡淑嘉皇貴妃遣官祭告太廟後殿奉先殿</ref>. Theo [[Hồng xưng thông dụng]] của [[Nội vụ phủ]], ''"Thục"'' có âm Mãn là 「Nemgiyen」, có nghĩa là ''"dịu dàng"'', ''"uyển thuận"''. Kim quan của bà tạm an ở [[Tĩnh An trang]]. Năm thứ 22 ([[1757]]), ngày [[2 tháng 11]], kim quan của Thục Gia Hoàng quý phi được an táng vào địa cung của [[Dụ lăng]], [[Thanh Đông lăng]].
 
Bà là 1 trong 5 hậu phi được an táng ở Dụ lăng cùng Càn Long Đế, bên cạnh [[Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu]], [[Hiếu Nghi Thuần Hoàng hậu]], [[Tuệ Hiền Hoàng quý phi]] và [[Triết Mẫn Hoàng quý phi]]. Thần bài của bà được đặt ở Tây Noãn các trong [[Long Ân điện]] (隆恩殿), phía Tây bài vị của Tuệ Hiền Hoàng quý phi (ở giữa Noãn các), và phía Đông là bài vị của Triết Mẫn Hoàng quý phi.