Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Công chúa”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 113:
Đời [[Hán Văn Đế]], từ khi Trưởng nữ Lưu Phiêu là người đầu tiên chính thức được phong hiệu Công chúa, thì danh xưng Công chúa bắt đầu có quy phạm, đều theo kiễu 「''Mỗ mỗ công chúa''; 某某公主」. Nói ''Mỗ mỗ'', tức là ''Mỗ mỗ huyện'', các Công chúa đều lấy tên thực ấp mà gọi, như Lưu Phiêu là [[Quán Đào công chúa]], theo thực ấp của Công chúa là huyện [[Quán Đào]]. Ngoài ra, khi sắc phong thì Lưu Phiêu được gọi là '''Trưởng công chúa''' (長公主; giản xưng '''Trưởng chúa'''), khi sang thời [[Hán Vũ Đế]] trở thành '''Đại Trưởng công chúa''' (大長公主; giản xưng '''Đại chúa''').
 
Căn cứ theo [[Hậu Hán thư]] - ''Hoàng hậu kỷ'' có viết:''"Hán chế, [[Hoàng nữ]] tắc phong Huyện công chúa, nghi phục ngang Liệt hầu. Những người được coi trọng, gia hiệu '''Trưởng công chúa''', nghi phục ngang Phiên vương"''<ref>Nguyên văn: 《后汉书·皇后纪》载:汉制,皇女皆封县公主,仪服同列侯。其尊崇者,加号长公主,仪服同蕃王</ref>. Lúc này, con gái cả do Trung cung sinh ra của Hoàng đế, theo lệ sẽ được phong [[Trưởng công chúa]], địa vị ngang với Chư hầu Vương. Ngoài ra, Hoàng đế cũng có thể gia phong tước vị Trưởng công chúa cho chị mình, như [[Hán Vũ Đế]] gia phong [[Bình Dương công chúa]], hay [[Hán Chiêu Đế]] phong chị mình phong hiệu là ''Cái Trưởng công chúa'' (蓋長公主).
 
Khi các Công chúa được gả cho bậc ''"Liệu hầu"'', phong hiệu của Công chúa đó sẽ đổi theo phong hiệu của chồng. Như [[Công chúa Bình Dương (Hán Cảnh Đế)|Dương Tín công chúa]], con gái của [[Hán Cảnh Đế]], khi được gả cho Bình Dương hầu Tào Thì, phong hiệu của bà được cải thành '''Bình Dương công chúa'''. Do tước hiệu Công chúa không có tính thế tập, nên vẫn xảy ra trường hợp 2 công chúa có cùng phong hiệu (ở những thời điểm khác nhau), như trường hợp phong hiệu [[Quán Đào công chúa]] từng được phong cho Lưu Phiêu (con gái [[Hán Văn Đế]]) và Lưu Thi (con gái [[Hán Tuyên Đế]]). Hoặc có trường hợp phong hiệu gây nhầm lẫn với liệt hầu khác như [[Công chúa Bình Dương (Hán Cảnh Đế)|Dương Tín công chúa]] với Dương Tín hầu. Bên cạnh đó, Hậu Hán thư cũng ghi, con trai của của Hoàng nữ được phong Công chúa, đều tập phong tước của mẹ liệt vào [[tước Hầu]].
 
Khi [[Vương Mãng]] lên ngôi, đã phế bỏ tước hiệu Công chúa, cải thành tước hiệu '''Thất chúa''' (室主), cải phong hiệu của con gái mình từ [[Vương hoàng hậu (Hán Bình Đế)|Định An Thái hậu]] của [[nhà Hán]] thành '''Hoàng Hoàng thất chúa''' (黃皇室主). Sử liệu của ghi chép lại tước hiệu của hai con gái [[Vương Mãng]] là Vương Diệp và Vương Tiệp được phong lần lượt là '''Mục Tu nhiệm''' (睦脩任) và '''Mục Đãi nhiệm''' (睦逮任)<ref>''[[Hán thư]]'', quyển 99 hạ, truyện Vương Mãng.</ref>.