Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Abu Hanifa”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎top: replaced: ; → ; using AWB
AlphamaEditor, Executed time: 00:00:07.7395195 using AWB
Dòng 6:
 
=== Thời thơ ấu ===
Abū anīfah được sinh ra tại thành phố [[Kufa]] ở [[Iraq]],<ref name=":1">{{Chú thích sách|url=https://books.google.com/books?id=BFZsBgAAQBAJ|title=Medieval Islamic Civilization: An Encyclopedia|last=Meri|first=Josef W.|date=Octoberngày 31, tháng 10 năm 2005|publisher=Routledge|isbn=9781135456030|page=5|language=en}}</ref><ref>Hisham M. Ramadan, ''Understanding Islamic Law: From Classical to Contemporary'', (AltaMira Press: 2006), p.26</ref> dưới triều đại của [[Nhà Omeyyad|Umayyad]] [[Khalifah|caliph]] [[Abd al-Malik|Abd al-Malik ibn Marwan]]. Cha của Abu, Thabit bin Zuta, là một thương nhân từ [[Kabul]] (ngày nay ở Afghanistan), đã 40 tuổi vào thời điểm Ab anīfah ra đời.
 
Tổ tiên của ông thường được chấp nhận là người gốc [[Người Ba Tư|Ba Tư]] theo gợi ý từ nguyên của tên của ông nội ông (Zuta) và ông cố (Mah). Nhà sử học Al-Khatib al-Baghdadi ghi lại một tuyên bố từ cháu trai của Imām Abū Ḥanīfah, Ismail bin Hammad, người đã cho dòng dõi của Abū Ḥanīfah là Thabit bin Numan bin Marzban và tự xưng là người gốc Ba Tư.<ref name="Cambridge"/><ref name="Cyril">Cyril Glasse, "The New Encyclopedia of Islam", Published by Rowman & Littlefield, 2008. pg 23: "Abu Hanifah, a Persian, was one of the great jurists of Islam and one of the historic Sunni Mujtahids"</ref> Sự khác biệt trong các tên, được đưa ra bởi Ismail của ông nội và ông cố của Abū Ḥanīfah, được cho là do Zuta chấp nhận tên tiếng Ả Rập (Numan) khi ông chấp nhận [[Hồi giáo|đạo Hồi]] và Mah và Marzban là tiêu đề hoặc ký hiệu chính thức ở Ba Tư, với thứ hai, nghĩa là một bá tước, đề cập đến tổ tiên cao quý của gia đình Abū Ḥanīfah như các [[Đế quốc Sasan|Sasanian]] Marzbans (tương đương với margraves). Tuy nhiên, ý kiến được chấp nhận rộng rãi là có lẽ ông là người gốc Ba Tư.<ref name="Cambridge" /><ref name="Cyril" />
Dòng 12:
=== Tuổi trưởng thành và cái chết ===
[[Tập tin:Abu_Hanifa_Mosque,_2008.jpg|nhỏ| Nhà thờ Hồi giáo Abu Hanifa ở [[Bagdad|Baghdad]], [[Iraq]] ]]
Năm 763, al-Mansur, quốc vương [[Nhà Abbas|Abbasid]] đề nghị Abu Hanifa giữ chức vụ Chánh án của Nhà nước, nhưng ông đã từ chối lời đề nghị, chọn cách độc lập. Học sinh của ông, Abu Yusuf, sau đó được Caliph [[Harun Al-Rashid|Harun al-Rashid]] bổ nhiệm làm ''Qadi Al-Qudat'' (Chánh án Nhà nước).<ref>{{Chú thích web|url=http://www.oxfordislamicstudies.com/article/opr/t125/e40?_hi=0&_pos=10|title=Oxford Islamic Studies Online|author=|first=|date=|website=Abu Yusuf|publisher=Oxford University Press|access-dateaccessdate =}}</ref>
 
Trả lời al-Mansur, Abū anīfah nói rằng ông không phù hợp với cương vị trên. Al-Mansur, người có ý tưởng và lý do riêng để đặt ông vào vị trí này, đã mất bình tĩnh và buộc tội Abū anīfah nói dối.
Dòng 20:
Tức giận bởi câu trả lời này, quốc vương đã bắt Abū Ḥanīfah vào tù và tra tấn ông. Ông không bao giờ được cho ăn cũng không được chăm sóc.<ref>[[Ya'qubi]], vol. III, p.86; Muruj al-dhahab, vol. III, pp. 268–270.</ref> Ngay cả khi ở trong tù, Abu vẫn tiếp tục dạy những người được phép đến gặp ông.
 
Vào ngày 15 Rajab 150 <ref>{{Chú thích sách|url=http://www.islamicinformationcentre.co.uk/alsunna.htm|title=Understanding the Ahle al-Sunnah: Traditional Scholarship & Modern Misunderstandings|last=Ammar|first=Abu|publisher=Islamic Information Centre|year=2001|chapter=Criticism levelled against Imam Abu Hanifah|access-dateaccessdate =2018-06- ngày 13 tháng 6 năm 2018 |chapter-url=http://www.islamicinformationcentre.co.uk/alsunna7.htm}}</ref> (ngày 15 tháng 8 năm 767 <ref>{{Chú thích web|url=https://habibur.com/hijri/150/7/|title=Islamic Hijri Calendar For Rajab – 150 Hijri|website=habibur.com|access-dateaccessdate =2018-06- ngày 13 tháng 6 năm 2018}}</ref>), Abū Hanīfah chết trong tù. Nguyên nhân cái chết của ông không rõ ràng, vì một số người nói rằng Abū Hanīfah đã đưa ra một ý kiến pháp lý cho việc mang vũ khí chống lại Al-Mansur, và sau đó ông đã bị đầu độc.<ref>Najeebabadi, Akbar S. (2001). The History of Islam. vol, 2. Darussalam Press. pp. 287. {{ISBN|9960-892-88-3}}.</ref> Người bạn tù và người sáng lập Karaite Do Thái, Anan Ben David, được cho là đã nhận được lời khuyên sống còn từ Abu.<ref>Nemoy, Leon. (1952). Karaite Anthology: Excerpts from the Early Literature. New Haven, CT: Yale University Press. pp. 4–5. {{ISBN|0-300-00792-2}}.</ref> Người ta nói rằng rất nhiều người tham dự đám tang của ông đến nỗi dịch vụ tang lễ được lặp lại sáu lần cho hơn 50.000 người đã tụ tập trước khi ông thực sự được chôn cất. Theo tường thuật lại của nhà sử học al-Khatib, có thể nói rằng trong hai mươi ngày, mọi người đã tiếp tục thực hiện nghi thức cầu nguyện cho Abu. Sau này, sau nhiều năm, Nhà thờ Hồi giáo Abū Ḥanīfah được xây dựng tại khu phố Adhamiyah của [[Bagdad|Baghdad]]. Abū Hanīfah cũng ủng hộ lý tưởng của Zayd ibn Ali và Ibrahim al Qamar cả Alid Zaidi Imams.
 
Ngôi mộ của Abū Hanīfah và lăng mộ của Abdul Qadir Gilani đã bị [[Ismail I|Shah Ismail]] của [[Nhà Safavid|đế chế Safavi]] phá hủy vào năm 1508.<ref>[https://books.google.com/books?id=QjzYdCxumFcC&pg=PA71&lpg=PA71&dq=hanifa+tomb+destroyed+safavids&source=bl&ots=PdV5MaKFs9&sig=0UhW6VaXCVVo0jFhkItxRPp_yC4&hl=en&ei=5gCuTeLqKIjagAfx6ITsCw&sa=X&oi=book_result&ct=result&resnum=4&ved=0CCUQ6AEwAw#v=onepage&q=hanifa%20tomb%20destroyed%20safavids&f=false Encyclopedia of the Ottoman Empire]</ref> Năm 1533, [[Đế quốc Ottoman|Ottoman đã]] chinh phục [[Bagdad|Baghdad]] và xây dựng lại lăng mộ của Abū Ḥanīfah và các địa điểm khác của Hồi giáo Sunni.<ref name="burak">{{Chú thích sách|title=The Second Formation of Islamic Law: The Ḥanafī School in the Early Modern Ottoman Empire|last=Burak|first=Guy|date=2015|publisher=Cambridge University Press|isbn=978-1-107-09027-9|location=Cambridge|pages=1}}</ref>