Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Càn Long”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 51:
| nơi an táng = [[Dụ lăng]], [[Đông Thanh Mộ]]
}}
'''Thanh Cao Tông''' ([[chữ Hán]]: 清高宗, [[25 tháng 9]] năm [[1711]] – [[7 tháng 2]] năm [[1799]]), Mãn hiệu '''Abkai Wehiyehe Huwangdi''', Hãn hiệu Mông Cổ '''Tengerig Tetgech Khan''' (腾格里特古格奇汗; Đằng Cách Lý Đặc Cổ Cách Kỳ hãn), [[Tây Tạng]] tôn vị '''Văn Thù Hoàng đế''' (文殊皇帝), là [[Hoàng đế]] thứ sáu của [[Nhà Thanh]], và là Hoàng đế Mãn Thanh thứ tư sau khi [[Mãn Thanh nhập quan|nhập quan]]. Trong thời gian trị vì của mình, ông chỉ dùng [[niên hiệu]] '''Càn Long''' (乾隆), nên còn gọi là '''Càn Long Đế''' (乾隆帝).
 
Là vị Hoàng đế có tuổi thọ lớn nhất trong [[lịch sử Trung Quốc]], thời kỳ trị vì của Càn Long Hoàng đế kéo dài hơn 60 năm; từ [[11 tháng 10]] năm [[1736]] đến [[1 tháng 9]] năm [[1795]]; và là thời cực thịnh về [[kinh tế]] cũng như [[quân sự]] của Đại Thanh. Vào thời này, lãnh thổ nước Thanh kéo dài đến Châu thổ [[sông Ili|sông Y Lê]] và [[Tân Cương]], lãnh thổ Trung Quốc mở rộng đến tối đa: khoảng 14.000.000 km², so với 9.600.000 km² hiện tại.
Dòng 60:
 
== Thân thế ==
[[File:Qianlong 3 years old having a bath IMG 5829 Great Lama Temple Beijing - Jietai Building qianlong era temple treasures.jpg|thumb|Bức tượng của Hoàng đế Càn Long lúc ba tuổi đang được tắm. Cổ vật ở [[Ung Hòa Cung]], Bắc Kinh.]]
Càn Long tên thật là '''Ái Tân Giác La Hoằng Lịch''' (爱新觉罗弘曆), sinh vào ngày [[13 tháng 8]] (tức ngày [[25 tháng 9]] dương lịch) năm Khang Hy thứ 50 ([[1711]]), vào lúc nửa [[đêm]] tại Đông thư viện của phủ Ung Thân vương<ref>清史稿·卷十·高宗本纪一》:世宗第四子,母孝圣宪皇后,康熙五十年八月十三日生於雍亲王府邸。</ref><ref>罗庆泗,唐文基.《乾隆传》.北京:人民出版社,1994</ref>, tên khi còn bé nhỏ là '''Nguyên Thọ''' (元寿).<ref>杨启樵.《揭开雍正皇帝隐秘的面纱》.香港:商务印书馆(香港)有限公司, 2000</ref> Thân phụ của ông là [[Thanh Thế Tông]] Ung Chính, khi ấy còn là Ung Thân vương. Còn thân mẫu ông là [[Hiếu Thánh Hiến hoàng hậu|Nữu Hộ Lộc thị]], khi ấy còn là [[Cách cách]] trong phủ Ung Thân vương.
 
Hàng 88 ⟶ 89:
 
== Hoàng đế Đại Thanh ==
===Chính sách đối nội===
[[File:ChineseSoldierByWilliamAlexander1793.JPG|thumb|left|Một người lính từ thời Càn Long, được vẽ bởi họa sĩ William Alexander, 1793]]
Càn Long là vị Hoàng đế rất chuyên tâm đến triều chính, đã xóa bỏ chế độ chính trị hà khắc của [[Ung Chính]], thay vào đó là chính sách khoan dung độ lượng. Ông giải phóng tất cả những người trong tông thất bị cầm tù, những người chú, bác bị bức hại mà chết đều được ghi trong ngọc điệp, phong anh em mình làm Thân vương; thời Ung Chính bắt bớ giam cầm những văn sĩ vô tội, gia tộc của họ bị đày tới biên giới làm nô lệ, nay đều được ông trả về quê cũ. Từ khi cơ cấu quyền lực tối cao chỉ sau Hoàng đế là [[Quân cơ xứ]] được thành lập, hàng ngày Càn Long đều đích thân tới Quân cơ xứ để xử lý việc triều chính. Sáng đi sớm tối về muộn, buổi tối cũng thường xuyên triệu kiến các Quân cơ đại thần, chính vì vậy mà từ thời ông, Quân cơ xứ dần dần hình thành nên chế độ trực đêm, sau này sợ một người không xử lý nổi, nên vào mỗi sáng sớm còn có một người tới giúp đỡ. Bên cạnh đó, Càn Long cũng quản lý rất nghiêm khắc hoạn quan và ngoại thích, trước hết là cấm hoạn quan học hành, xóa bỏ Nội thư đường vốn là nơi đọc sách, học chữ của hoạn quan; tiếp đến phàm những hoạn quan là sai tấu sự thì đều đổi họ là Vương, như vậy sẽ khiến các quan bên ngoài khó mà phân biệt được, từ đó tránh để họ câu kết với nhau.
 
Về mặt phát triển xã hội, Càn Long chủ yếu kế thừa chế độ kinh tế và chính trị của Khang Hi và Ung Chính, đặc biệt là thực thi triệt để các chính sách như "cải thổ quy lưu", "than định nhập mẫu" và "hỏa hao quy công". Những chính sách này đã đưa triều Thanh lên đỉnh cao của sự phát triển. Đất nước dưới thời Càn Long bắt đầu bước vào giai đoạn cực thịnh.
 
=== Các cuộc chiến tranh biên giới ===
[[Tập tin:清 郎世宁绘《清高宗乾隆帝朝服像》.jpg|nhỏ|250px|Tranh vẽ Càn Long lúc còn trẻ.]]
Hàng 97 ⟶ 104:
Cuộc diệt chủng của hãn quốc Chuẩn Cát Nhĩ đã được so sánh với chiến dịch [[Thập toàn Võ công]] vào năm 1776, cũng xảy ra trong thời của Càn Long. Khi quân chiến thắng trở về Bắc Kinh, một bài thánh ca được hát để tôn vinh họ. Một phiên bản [[tiếng Mãn Châu]] của bài thánh ca được ghi lại bởi Dòng Tên Amoit và gửi đến [[Paris]]. Nhà Thanh đã thuê [[Triệu Dực]] và Jiang Yongzhi tại Sở Lưu trữ Quân sự, với tư cách là thành viên của [[Hàn Lâm Viện]], để biên soạn các tác phẩm về chiến dịch này, như Chiến lược bình định Chuẩn Cát Nhĩ (Pingding Zhunge'er fanglue). Những bài thơ tôn vinh cuộc chinh phục nhà Thanh được viết bởi Triệu Dực, người đã viết phong cách Yanpu trong "phong cách ghi chép", nơi mà các khoản chi tiêu quân sự của triều đại Càn Long được ghi lại. Càn Long đã được ca ngợi là nguồn gốc của "hòa bình và thịnh vượng của thế kỷ 18" theo mô tả của Triệu Dực.
 
Các phiến quân Khalkha của Mông Cổ dưới thờitrướng hoàng tử Chingünjav đã lập mưu cùng với lãnhkhả đạohãn DzungarChuẩn Cát Nhĩ Amursana và lãnh đạo một cuộc nổi dậy chống lại Đếđế chế nhàquốc Thanh cùng thời với Chuẩn Cát Nhĩ. Quân đội nhà Thanh đã đàn áp cuộc nổi dậy và [[hành quyết]] Chingünjav cũng như cả gia đình ông ta.
 
Suốt thời gian này đã tiếp tục diễn ra sự can thiệp của người Mông Cổ vào [[Tây Tạng]]; ở chiều ngược lại đó là sự thâm nhập của [[Phật giáo Tây Tạng]] vào [[Mông Cổ]]. Sau [[cuộc bạo loạn Llasa]] vào năm 1750, Càn Long đã trao quyền trị vì Tây Tạng cho [[Đà Lai Lạt Ma]] nhưng song song đó, lại đặt nó dưới sự giám sát của các quan Đại thần và quân đội Nhà Thanh đồn trú tại đây nhằm bảo vệ chủ quyền của [[Trung Hoa]]. Ở những mặt trận xa hơn, ông đã thu phục được [[người Nepal]], [[người Gukhas]]. Năm 1791, Gurkha (nay là [[Nepal]]) xâm chiếm [[Tây Tạng]]. chúng đi tới đâu là cướp của giết người tới đó, khiến nhân dân Tây Tạng lâm vào cảnh đau thương, khốn đốn. Càn Long lập tức phái Phúc Khang An và Hải Lan Sát dẫn quân đến nghênh chiến. Quân Thanh nhanh chóng đánh đuổi được quân Gurkha ra khỏi Tây Tạng. Quân Gurkha phái sứ giả tới cầu hòa, cam kết sẽ không bao giờ xâm phạm Tây Tạng nữa, và trả lại số vàng bạc châu báu cướp được, Càn Long đã chấp nhận điều kiện ngừng chiến này của Gurkha. Sau việc này, Càn Long cảm thấy chính phủ Tây Tạng đã quá thối nát, không thể chống đỡ nổi sự tấn công của quân xâm lược, vậy nên đã phái Phúc Khang An soạn thảo điều lệ giải quyết vấn đề nan giải của Tây Tạng, đây chính là "Khâm định Tây Tạng chương trình" nổi tiếng trong lịch sử.
Hàng 107 ⟶ 114:
Vào giai đoạn cuối cuộc chiến tranh biên giới, quân đội nhà Thanh đã bắt đầu suy yếu đáng kể. Ngoài một hệ thống quân sự khoan dung hơn, các lãnh chúa trở nên hài lòng với lối sống của họ. Vì hầu hết các cuộc chiến đã diễn ra, các lãnh chúa không còn thấy bất kỳ lý do gì để huấn luyện quân đội của họ, dẫn đến một sự suy giảm quân sự nhanh chóng vào cuối triều đại của Hoàng đế Càn Long. Đây là lý do chính cho sự thất bại của quân đội nhà Thanh để ngăn chặn cuộc [[khởi nghĩa Bạch Liên giáo]], bắt đầu vào cuối triều đại của Càn Long và mở rộng vào thời của [[Gia Khánh]].
 
==== Điều quân sang nước Đại Việt ====
===Chính sách đối nội===
Càn Long là vị Hoàng đế rất chuyên tâm đến triều chính, đã xóa bỏ chế độ chính trị hà khắc của [[Ung Chính]], thay vào đó là chính sách khoan dung độ lượng. Ông giải phóng tất cả những người trong tông thất bị cầm tù, những người chú, bác bị bức hại mà chết đều được ghi trong ngọc điệp, phong anh em mình làm Thân vương; thời Ung Chính bắt bớ giam cầm những văn sĩ vô tội, gia tộc của họ bị đày tới biên giới làm nô lệ, nay đều được ông trả về quê cũ. Từ khi cơ cấu quyền lực tối cao chỉ sau Hoàng đế là [[Quân cơ xứ]] được thành lập, hàng ngày Càn Long đều đích thân tới Quân cơ xứ để xử lý việc triều chính. Sáng đi sớm tối về muộn, buổi tối cũng thường xuyên triệu kiến các Quân cơ đại thần, chính vì vậy mà từ thời ông, Quân cơ xứ dần dần hình thành nên chế độ trực đêm, sau này sợ một người không xử lý nổi, nên vào mỗi sáng sớm còn có một người tới giúp đỡ. Bên cạnh đó, Càn Long cũng quản lý rất nghiêm khắc hoạn quan và ngoại thích, trước hết là cấm hoạn quan học hành, xóa bỏ Nội thư đường vốn là nơi đọc sách, học chữ của hoạn quan; tiếp đến phàm những hoạn quan là sai tấu sự thì đều đổi họ là Vương, như vậy sẽ khiến các quan bên ngoài khó mà phân biệt được, từ đó tránh để họ câu kết với nhau.
 
Về mặt phát triển xã hội, Càn Long chủ yếu kế thừa chế độ kinh tế và chính trị của Khang Hi và Ung Chính, đặc biệt là thực thi triệt để các chính sách như "cải thổ quy lưu", "than định nhập mẫu" và "hỏa hao quy công". Những chính sách này đã đưa triều Thanh lên đỉnh cao của sự phát triển. Đất nước dưới thời Càn Long bắt đầu bước vào giai đoạn cực thịnh.
 
===Bản sắc chính trị Trung Quốc và chính sách biên cương===
Hoàng đế Càn Long và những người tiền nhiệm của ông, kể từ Hoàng đế [[Thuận Trị]], đã xác định Trung Quốc và Đế quốc Thanh là như nhau, và trong các hiệp ước và các tài liệu ngoại giao, Đế quốc Thanh gọi đó là "Trung Quốc". Hoàng đế Càn Long đã bác bỏ những ý kiến ​​trước đó rằng chỉ [[người Hán]] mới có thể là người Trung Quốc và chỉ có đất Hán mới có thể được coi là một phần của Trung Quốc, vì vậy ông đã định nghĩa lại Trung Quốc là đa sắc tộc, nói rằng vào năm 1755, "tồn tại quan điểm về Trung Quốc (zhongxia), theo mà những người không phải người Hán không thể trở thành chủ thể của Trung Quốc và đất đai của họ không thể hòa nhập vào lãnh thổ Trung Quốc. Điều này không thể hiện sự hiểu biết về triều đại của chúng ta về Trung Quốc, mà thay vào đó là các triều đại Hán, Đường, Tống và Minh trước đó. "
 
Hoàng đế Càn Long bác bỏ quan điểm của các quan chức Hán, người nói rằng [[Tân Cương]] không phải là một phần của Trung Quốc và ông không nên chinh phục nó, đưa ra quan điểm rằng Trung Quốc là đa sắc tộc và không chỉ đề cập đến người Hán. Hoàng đế Càn Long đã so sánh thành tích của mình với thành tích của [[nhà Hán]] và [[nhà Đường]] khi viễn chinh vào [[Trung Á]].
 
===Quan hệ với phương Tây===
Đối mặt với thực dân phương Tây liên tục dòm ngó, Càn Long đã chọn thái độ cứng rắn, từ chối thẳng thừng những yêu cầu vô lý của họ. Cùng với đó, ông chọn thái độ hữu hảo với những nước có thành ý với Trung Quốc, tuy nhiên vẫn dứt khoát từ chối đề xuất thông thương của họ. Quan điểm của ông là, tiếp tục duy trì chính sách bế quan tỏa cảng của quốc gia, cũng chính vì vậy mà đã khiến khoa học kỹ thuật của Trung Quốc tụt hậu khá xa so với châu Âu.
 
=== Điều quân sang nước Đại Việt ===
[[File:Qianlong emperor hunting.jpg|thumb|left|Một bức tranh mô tả Càn Long khi đi săn.]]
Những năm cuối thế kỷ XVIII, nước [[Đại Việt]] xảy ra tranhxung chấpđột giữa [[nhà Hậu Lê]] với [[nhà Tây Sơn]]. Tháng 5 năm 1788, vua [[Lê Chiêu Thống]] cùng các bầy tôi sang [[Long Châu]] cầu viện nhà Thanh phát binh đánh nhà Tây Sơn. Tháng 7 năm 1788, Lê Chiêu Thống ở [[Kinh Bắc]] cũng sai người sang Trung Quốc cầu cứu. Càn Long thấy vậy bèn phát binh đánh Đại Việt. Cuối năm [[1788]], Càn Long sai [[Tổng đốc Lưỡng Quảng]] [[Tôn Sĩ Nghị]] chỉ huy hơn 29 vạn quân, huy động từ [[Lưỡng Quảng]], [[Vân Nam]][[Quý Châu]]<ref>Theo ''Tìm hiểu thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ'', trích dẫn từ ''Thánh vũ ký'' của Ngụy Nguyên đời Thanh</ref> hộ tống Lê Chiêu Thống về Đại Việt với danh nghĩa phù [[Nhà Hậu Lê|Lê]] diệt Tây Sơn, và phong cho Lê Chiêu Thống là An Nam Quốc vương để vào chiếm đóng [[Thăng Long]] ([[Hà Nội]]). Quân đội nhà Thanh nhanh chóng áp đảo và dễ dàng chiếm kinh thành [[Thăng Long]], buộc hai tướng [[Ngô Văn Sở]] và [[Ngô Thì Nhậm]] phải rút quân vào [[Phú Xuân]] báo cho tướng nhà Tây Sơn là Bắc Bình vương Nguyễn Huệ.
 
Nghe tin báo, ngày 25 tháng 11 năm [[Mậu Thân]] ([[22 tháng 12]] năm [[1788]]), [[Nguyễn Huệ]] của Tây Sơn lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu Quang Trung và xuất quân tiến ra Bắc đánh quân Thanh. Ngày 29 tháng 11 năm Mậu Thân (26 tháng 12 năm 1788), đại quân của hoàng đế Quang Trung tới [[Nghệ An]], dừng quân tại đó hơn 10 ngày để tuyển quân và củng cố lực lượng, nâng quân số lên 10 vạn, tổ chức thành 5 đạo quân: tiền, hậu, tả, hữu và trung quân. Ngoài ra còn có một đội tượng binh với hơn 100 voi chiến. Vua Quang Trung còn tổ chức lễ duyệt binh ngay tại Nghệ An để khích lệ ý chí quyết chiến, quyết thắng của tướng sĩ đối với quân xâm lược Mãn Thanh. Ngay sau lễ duyệt binh, Quang Trung tiến quân ra Bắc Hà.
Hàng 131 ⟶ 125:
 
Trưa mồng 5 Tết Kỷ Dậu - [[1789]], quân Tây Sơn tiến vào [[Thăng Long]]. Tôn Sĩ Nghị và Lê Chiêu Thống sợ hãi dẫn đám tàn quân vượt [[sông Hồng]] chạy thoát về [[Trung Quốc]]. Quang Trung tuy đánh bại quân Thanh, nhưng biết Đại Thanh là nước lớn, vả lại còn đang phải chống lại thế lực [[Nguyễn Ánh]] ở miền Nam Đại Việt, nên quyết định xưng thần với nhà Thanh. Về phía Đại Thanh, Càn Long biết Đại Việt khó đánh, mà đánh được cũng khó giữ, nên chấp nhận sự giảng hòa của Quang Trung. Càn Long vẫn giữ nhóm vua tôi Lê Chiêu Thống trên đất Trung Quốc nhưng phớt lờ tất cả mọi nỗ lực của họ khi đòi người Thanh tiếp tục đưa quân sang đánh báo thù Tây Sơn.
 
===Bản sắc chính trị Trung Quốc và chính sách biên cương===
Hoàng đế Càn Long và những người tiền nhiệm của ông, kể từ Hoàng đế [[Thuận Trị]], đã xác định Trung Quốc và Đế quốc Thanh là như nhau, và trong các hiệp ước và các tài liệu ngoại giao, Đế quốc Thanh gọi đó là "Trung Quốc". Hoàng đế Càn Long đã bác bỏ những ý kiến ​​trước đó rằng chỉ [[người Hán]] mới có thể là người Trung Quốc và chỉ có đất Hán mới có thể được coi là một phần của Trung Quốc, vì vậy ông đã định nghĩa lại Trung Quốc là đa sắc tộc, nói rằng vào năm 1755, "tồn tại quan điểm về Trung Quốc (zhongxia), theo mà những người không phải người Hán không thể trở thành chủ thể của Trung Quốc và đất đai của họ không thể hòa nhập vào lãnh thổ Trung Quốc. Điều này không thể hiện sự hiểu biết về triều đại của chúng ta về Trung Quốc, mà thay vào đó là các triều đại Hán, Đường, Tống và Minh trước đó. "
 
Hoàng đế Càn Long bác bỏ quan điểm của các quan chức Hán, người nói rằng [[Tân Cương]] không phải là một phần của Trung Quốc và ông không nên chinh phục nó, đưa ra quan điểm rằng Trung Quốc là đa sắc tộc và không chỉ đề cập đến người Hán. Hoàng đế Càn Long đã so sánh thành tích của mình với thành tích của [[nhà Hán]] và [[nhà Đường]] khi viễn chinh vào [[Trung Á]].
 
===Quan hệ với phương Tây===
Đối mặt với thực dân phương Tây liên tục dòm ngó, Càn Long đã chọn thái độ cứng rắn, từ chối thẳng thừng những yêu cầu vô lý của họ. Cùng với đó, ông chọn thái độ hữu hảo với những nước có thành ý với Trung Quốc, tuy nhiên vẫn dứt khoát từ chối đề xuất thông thương của họ. Quan điểm của ông là, tiếp tục duy trì chính sách bế quan tỏa cảng của quốc gia, cũng chính vì vậy mà đã khiến khoa học kỹ thuật của Trung Quốc tụt hậu khá xa so với châu Âu.
 
==Thành tựu văn hóa==
Hàng 235 ⟶ 237:
 
==Những năm cuối đời==
Trong những năm cuối đời, Càn Long bắt đấu sống hưởng lạc, xa hoa sau khi đã đạt được mọi quyền lực và vinh quang. Ông tỏ ra tự mãn, và bắt đầu đặt niềm tin vào các quan chức tham nhũng, đặc biệt là [[Vương Kiệt (nhà Thanh)|Vương Kiệt]] và [[Hòa Thân]].
 
Vì Hòa Thân là quan lại có quyền hành cao nhất và được Càn Long ưa chuộng nhất vào thời điểm đó, việc quản trị đất nước bị bỏ lại trong tay ông ta, trong khi Hoàng đế sống hưởng lạc với những thú vui như nghệ thuật, xa hoa và văn học. Khi Hòa Thân sau này bị con của Càn Long là vua [[Gia Khánh]] thanh trừng, chính quyền nhà Thanh phát hiện ra rằng tài sản cá nhân của Hòa Thân vượt quá ngân quỹ cạn kiệt của Đế quốc, lên tới 900 triệu bạc, tổng cộng 12 năm thặng dư của kho bạc của triều đình nhà Thanh.
Hàng 242 ⟶ 244:
 
Tuy nhiên, do nhiều yếu tố như nạn tham ô của các quan lại, các cuộc tuần du thường xuyên ở phía nam, các công trình xây dựng cung điện khổng lồ, nhiều cuộc viễn chinh quân sự cũng như lối sống xa hoa của riêng mình, tất cả những chi phí này là 150,2 triệu. Điều này, cùng với tuổi cao niên của ông và thiếu các cải cách chính trị, đã khiến nhà Thanh từ giai đoạn thịnh trị đã bắt đầu suy thoái vào những năm cuối cuộc đời của ông.
 
===Sứ giả Macartney===
[[File:LordMacartneyEmbassyToChina1793.jpg|thumb|Sứ giả Lord Macartney, 1793]]
[[File:JosephMarieAmiot.JPG|thumb|Người Pháp theo [[Dòng Tên]] Joseph-Marie Amiot (1718-1793) là người phiên dịch chính thức các ngôn ngữ phương Tây cho Hoàng đế Càn Long.]]
[[File:Houckgeest.JPG|thumb|Hình minh họa mô tả phái đoàn châu Âu cuối cùng được tiếp nhận tại triều đình của Hoàng đế Càn Long năm 1795 - Isaac Titsingh (ngồi với chiếc mũ, ngoài cùng bên trái) và Andreas Everardus van Braam Houckgeest (ngồi không đội mũ)]]
Vào giữa thế kỷ 18, các cường quốc châu Âu bắt đầu gây áp lực cho sự gia tăng trong thương mại nước ngoài đang phát triển và các tiền đồn trên bờ biển Trung Quốc, yêu cầu mà vị hoàng đế Càn Long già nua luôn khước từ. Năm 1793, Vua [[George III của Liên hiệp Anh và Ireland]] đã phái một phái đoàn quy mô lớn trình bày các yêu cầu của họ trực tiếp với hoàng đế ở Bắc Kinh, đứng đầu là George Macartney, một trong những nhà ngoại giao dày dạn kinh nghiệm nhất của Anh. [[Người Anh]] đã gửi một mẫu hàng hóa thương mại mà họ dự định bán ở Trung Quốc; điều này đã bị hiểu sai là cống phẩm được coi là có chất lượng thấp.
 
Các nhà sử học ở Trung Quốc và nước ngoài từ lâu đã trình bày về sự thất bại của sứ mệnh đạt được mục tiêu của mình như là một biểu tượng của sự từ chối thay đổi và không có khả năng hiện đại hóa của Trung Quốc. Họ giải thích sự từ chối đầu tiên trên thực tế là sự tương tác với các vương quốc nước ngoài chỉ giới hạn ở các quốc gia phụ lưu lân cận. Hơn nữa, thế giới quan của hai bên không tương thích, Trung Quốc giữ niềm tin cố thủ rằng Trung Quốc là "vương quốc trung tâm". Tuy nhiên, sau khi xuất bản vào những năm 1990 của một loạt các tài liệu lưu trữ đầy đủ hơn về chuyến thăm, những tuyên bố này đã bị thách thức. Một số người khẳng định rằng sự tự trị và hiện đại hóa thành công ngày nay của Trung Quốc đã đưa các hành động của Hoàng đế Càn Long sang một khía cạnh mới. Một nhà sử học đã tóm tắt quan điểm mới được sửa đổi bằng cách mô tả hoàng đế và triều đình của ông là "nhà điều hành chính trị rõ ràng thông minh và có thẩm quyền". Họ đã hành động trong các yêu sách chính thức của nhà Thanh về tuyên bố cai trị toàn cầu, nhưng cũng chỉ đơn giản là phản ứng thận trọng bằng cách xoa dịu người Anh bằng những lời hứa không xác định để tránh xung đột quân sự và mất giao dịch thương mại.
 
Macartney được cho phép đến yết kiến với Hoàng đế Càn Long trong hai ngày, lần thứ hai trùng với sinh nhật lần thứ 82 của hoàng đế. Tiếp tục có cuộc tranh luận về bản chất của cuộc triều kiến này và mức độ của các nghi lễ đã được thực hiện. Macartney viết rằng ông đã chống lại yêu cầu của nhà Thanh về việc các đại sứ thương mại Anh phải quỳ xuống và thực hiện cúi đầu chạm đất trước mặt Càn Long và cuộc tranh luận vẫn tiếp tục như những gì đã xảy ra, những ý kiến ​​khác nhau được ghi lại bởi các triều thần nhà Thanh và các đại biểu Anh.
 
Càn Long đã gửi cho Macartney một bức thư cho nhà vua Anh nêu rõ lý do rằng ông sẽ không chấp nhận yêu cầu của Macartney:
 
<blockquote><poem>Hôm qua, sứ giả của ngươi đã kiến ​​nghị các thượng thư của ta để tưởng niệm tôi về thương mại của ngài với Trung Quốc, nhưng đề xuất của ngươi không phù hợp với chính sách [[triều đại]] của ta và không thể dễ dãi thông qua. Cho đến nay, tất cả các quốc gia châu Âu, bao gồm cả thương nhân [[man di]] của đất nước ngươi, đã thực hiện giao dịch với Đế chế [[Thiên hạ]] của chúng ta tại Quảng Đông. Điều đó đã là thủ tục trong nhiều năm, mặc dù Đế chế Thiên hạ của chúng ta sở hữu tất cả mọi thứ trong sự phong phú và không thiếu thứ gì trong biên giới riêng của mình.
 
Yêu cầu của ngươi về một hòn đảo nhỏ gần [[Chu San]], nơi thương nhân của ngươi có thể cư trú và hàng hóa được nhập kho, xuất phát từ mong muốn phát triển thương mại của ngươi ... Hơn nữa, nước Anh không phải là vùng đất man di duy nhất muốn thiết lập ... buôn bán với Đế chế của chúng ta: giả sử rằng các quốc gia khác đều bắt chước ví dụ xấu xa của ngươi và cầu xin ta trình bày cho bọn chúng tất cả mọi thứ với một địa điểm cho mục đích giao dịch, làm thế nào ta có thể tuân thủ? Đây cũng là một sự vi phạm trắng trợn đối với việc sử dụng Đế chế của ta và không thể xem nhẹ được.
 
Cho đến nay, các thương nhân man di ở châu Âu đã có một địa phương xác định được giao cho chúng tại [[Ma Cao]] để cư trú và buôn bán, và đã bị cấm lấn chiếm một inch vượt quá giới hạn được giao cho địa phương đó .... Nếu những hạn chế này được rút lại, chắc chắn sẽ xảy ra xích mích xảy ra giữa người Trung Quốc và đối tượng man di của ngươi ...
 
Về việc tôn thờ [[Giê-su|Thiên Chúa]] của quốc gia các ngươi, đó là tôn giáo giống như các quốc gia châu Âu khác. Ngay từ khi bắt đầu lịch sử, các Hoàng đế hiền triết và các nhà cai trị khôn ngoan đã ban cho Trung Quốc một hệ thống đạo đức và khắc sâu một bộ luật, từ thời xa xưa đã được các đối tượng của ta quan sát là một tôn giáo tiêu chuẩn. Không có khao khát sau các học thuyết không chính thống. Ngay cả các quan chức châu Âu (truyền giáo) ở kinh đô của ta cũng bị cấm tổ chức giao tiếp với các đối tượng Trung Quốc ...<ref name=":0" /></poem></blockquote>
 
Bức thư được lưu giữ trong kho lưu trữ nhưng phần lớn không được công chúng biết đến cho đến năm 1914.
 
Sự hoài nghi của Hoàng đế Càn Long đối với Đế quốc Anh sau này sẽ chứng tỏ tiên tri. Sau khi Vương quốc Anh bắt đầu nhập khẩu trà Trung Quốc, cán cân thương mại không còn ủng hộ Anh, và đế chế đã đưa ra chiến lược buộc Trung Quốc trở thành một thị trường cho một hàng hóa mà các thương nhân Anh có thể bán vì chính sách thương mại của nhà Thanh chỉ cho phép các thương nhân của họ chấp nhận bạc như thanh toán cho xuất khẩu chè. Các thương nhân người Anh sẽ chịu trách nhiệm buôn lậu một lượng lớn thuốc phiện cho miền nam Trung Quốc, gây ra một cuộc khủng hoảng nghiện thuốc phiện trên toàn quốc gia và dẫn đến hai cuộc [[chiến tranh Nha phiến]] sau này.
 
===Sứ giả Titsingh===
Một sứ giả quán Hà Lan đã đến triều đình của Hoàng đế Càn Long vào năm 1795, đó sẽ là lần cuối cùng bất kỳ người châu Âu nào xuất hiện trước triều đình nhà Thanh trong bối cảnh quan hệ đối ngoại truyền thống của Trung Quốc.
 
Đại diện cho lợi ích của [[Công ty Đông Ấn Hà Lan]], Isaac Titsingh đã đến Bắc Kinh vào năm 1794-95 để tham dự lễ kỷ niệm 60 năm trị vì của Hoàng đế Càn Long. Phái đoàn Titsingh cũng bao gồm Andreas Everardus van Braam Houckgeest, người Mỹ gốc Hà Lan, có mô tả chi tiết về đại sứ này trước triều đình nhà Thanh ngay sau khi được công bố tại Hoa Kỳ và Châu Âu. Dịch giả người Pháp của Titsingh, Chrétien-Louis-Joseph de Guignes, đã xuất bản nguồn riêng của mình về nhiệm vụ của Titsingh năm 1808. ''Voyage a Pékin, Manille et l'Ile de France'' cung cấp một quan điểm thay thế và một phản biện hữu ích cho các báo cáo khác đang được lưu hành. Titsingh đã chết trước khi anh có thể xuất bản phiên bản sự kiện của mình.
 
Trái ngược với Macartney, Isaac Titsingh, sứ giả Hà Lan và [[Công ty Đông Ấn Hà Lan]] năm 1795 đã không từ chối thi lễ trước mắt hoàng đế. Nhưng trong năm sau khi từ chối thi lễ giống Mccartney, Titsingh và các đồng nghiệp của ông đã bị Trung Quốc phản đối nhiều vì những gì được hiểu là dường như là phải tuân thủ nghi thức của triều đình thông thường.
 
==Qua đời==