Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Việt Nam Cộng hòa”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Duongqua56 (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 71:
'''Việt Nam Cộng hòa''' (viết tắt là '''VNCH''', {{lang-fr|République du Viêt Nam}}, hoặc viết tắt là '''RVN'''), [[1955]]–[[1975]]) là một cựu chính thể được thành lập từ [[Quốc gia Việt Nam]] ([[1949]]–[[1955]]), với thủ đô là [[Sài Gòn]]. Trong các tài liệu nước ngoài, chính phủ này cũng được gọi là ''"South Vietnam"'' (Nam Việt Nam) để chỉ vị trí địa lý của nó kể từ khi [[Hiệp định Genève, 1954|Hiệp định Genève]] được ký kết và Việt Nam bị chia cắt thành hai vùng tập kết quân sự tạm thời.
 
Nguồn gốc của Việt Nam Cộng hòa bắt nguồn từ [[chiến tranh Đông Dương]]. Sau [[Thế chiến II]], phong trào [[Việt Minh]] do [[Hồ Chí Minh]] lãnh đạo đã tuyên bố thành lập nước [[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]] vào ngày 2 tháng 9 năm 1945. Cuối năm 1945, [[thực dân Pháp]] quay trở lại xâm chiếm Việt Nam. Năm 1949, bằng một hiệp định với thực dân Pháp, một nhóm chính trị gia chống cộng đã thành lập [[Quốc gia Việt Nam]] với [[Bảo Đại]] là lãnh đạo. Sau khi Pháp thất bại và rút quân về nước năm 1954, Hoa Kỳ thế chỗ Pháp, tiếp tục hậu thuẫn chế độ Quốc gia Việt Nam nhằm ngăn chặn việc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp quản toàn bộ đất nước. Thủ tướng Ngô Đình Diệm đã phế truất Bảo Đại vào năm 1955 sau một [[Trưng cầu dân ý miền Nam Việt Nam, 1955|cuộc trưng cầu dân ý bị
ĐCSVN cho là có gian lận]] được [[Hoa Kỳ]] hậu thuẫn. Quốc gia Việt Nam được đổi tên thành Việt Nam Cộng hòa vào ngày 26 tháng 10 năm 1955, với [[Ngô Đình Diệm]] là Tổng thống đầu tiên<ref name="Bühler2001p71">{{chú thích sách|author=Konrad G. Bühler|title=State Succession and Membership in International Organizations: Legal Theories Versus Political Pragmatism|url=https://books.google.com/books?id=Ty7NAG1Jl-8C|year=2001|publisher=Martinus Nijhoff Publishers|isbn=978-90-411-1553-9|pages=[https://books.google.com/books?id=Ty7NAG1Jl–8C&pg=PA71 71]}}</ref>. Chính phủ này lập tức được Hoa Kỳ công nhận và lần lượt có quan hệ ngoại giao với 77 quốc gia. Năm [[1957]], Việt Nam Cộng hòa đệ đơn xin gia nhập [[Liên Hiệp Quốc]] nhưng đề nghị này bị [[Liên Xô]] phủ quyết<ref name="DOA19751">{{chú thích web|url=http://lawofwar.org/vietnam_pow_policy.htm|title=Application of Geneva Conventions to Prisoners of War|author=George S. Prugh|publisher=http://lawofwar.org/|year=1975|work=VIETNAM STUDIES: LAW AT WAR: VIETNAM 1964–1973|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20170424093326/http://lawofwar.org/vietnam_pow_policy.htm|ngày lưu trữ=ngày 24 tháng 4 năm 2017|accessdate=ngày 17 tháng 7 năm 2017}}</ref><ref name="Doyle20101">{{chú thích sách|author=Robert C. Doyle|title=The Enemy in Our Hands: America's Treatment of Enemy Prisoners of War from the Revolution to the War on Terror|url=https://books.google.com/books?id=ZBryc3ANF6IC|year=2010|publisher=University Press of Kentucky|isbn=978-0-8131-2589-3|page=[https://books.google.com/books?id=ZBryc3ANF6IC&pg=PA269 269]}}</ref>. Sau khi Ngô Đình Diệm bị ám sát trong [[Đảo chính Việt Nam Cộng hòa 1963|một cuộc đảo chính]] do tướng [[Dương Văn Minh]] cầm đầu năm 1963, một loạt chính quyền quân sự được thành lập nhưng chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn. Tướng [[Nguyễn Văn Thiệu]] sau đó nắm quyền trong giai đoạn 1967-1975 với một chính quyền quân sự do người Mỹ hậu thuẫncác nước tự do dân chủ công nhận.
 
Sự khởi đầu của [[chiến tranh Việt Nam]] diễn ra vào năm 1959 với sự nổi dậy của [[Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam|Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam]] gồm những người miền Nam chống Mỹ và chế độ Ngô Đình Diệm (mà Mỹ gọi là Việt Cộng), họ nhận được hỗ trợ toàn lực từ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, cùng với viện trợ vật chất từ Liên Xô, các nước trong Hiệp ước Warsaw, Trung Quốc và Bắc Triều Tiên. Cuộc chiến leo thang về quy mô khi các lực lượng [[quân đội Hoa Kỳ]] trực tiếp tham gia vào cuộc chiến năm 1964, tiếp theo là các đơn vị bộ binh Hoa Kỳ để tăng cường cho đội ngũ cố vấn quân sự hướng dẫn các lực lượng của Quân đội Việt Nam Cộng hòa. Một chiến dịch ném bom thường xuyên ở miền Bắc Việt Nam đã được các phi đội không quân Hoa Kỳ thực hiện từ các tàu sân bay của Hoa Kỳ từ năm 1966 và 1967. Chiến tranh đã đạt đến đỉnh cao trong [[sự kiện Tết Mậu Thân]] tháng 2 năm 1968, khi có hơn 600.000 lính Mỹ và đồng minh (Úc, New Zealand, Hàn Quốc, Thái Lan) cùng 600.000 lính Việt Nam Cộng hòa tham chiến ở miền Nam Việt Nam, cùng với hải quân và không quân Hoa Kỳ bắn phá miền Bắc Việt Nam.