Khác biệt giữa bản sửa đổi của “USS Guam (CB-2)”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →Lịch sử phục vụ: ct |
n →Lịch sử phục vụ: ct |
||
Dòng 100:
Sau khi chạy thử máy đến [[Trinidad]], con tàu rời khỏi [[Philadelphia]] ngày 17 tháng 2 năm 1945, và gia nhập [[Hạm đội Thái Bình Dương Hoa Kỳ]] tại [[Trân Châu Cảng]] ngày 8 tháng 2 bằng cách đi qua [[Kênh đào Panama]]. Một thời gian ngắn sau đó, ''Guam'' được đón chuyến thăm của [[Bộ trưởng Hải quân Hoa Kỳ]] [[James Forrestal|Forrestal]]. Rời [[Trân Châu Cảng]] ngày 3 tháng 3, ''Guam'' đi đến [[Ulithi]] ngày 13 tháng 3 rồi nhập vào con tàu chị em với nó là ''Alaska'' cùng với các đơn vị danh tiếng thuộc [[Lực lượng Hàm không Mẫu hạm Đặc nhiệm thần tốc|Lực lượng Đặc nhiệm 58]] (TF 58) của [[Đô đốc]] [[Marc Mitscher]].
Ngày hôm sau, con tàu thực hiện chuyến đi xuất phát từ Ulithi cùng với [[Nhóm Đặc nhiệm 58.4]] (TG 58.4) do [[Chuẩn Đô đốc]] [[Arthur W. Radford]], một trong những nhóm đặc nhiệm tinh nhuệ nhất trong lịch sử hải quân, tiếp cận vùng phụ cận [[Kyushu|Kyūshū]] và [[Shikoku]], vào buổi sáng ngày 18 tháng 3. Trong nhóm này bao gồm các tàu {{USS|Yorktown|CV-10|2}}, {{USS|Intrepid|CV-11|2}}, {{USS|Independence|CVL-22|2}}, và {{USS|Langley|CVL-27|2}}; các [[
Sai khi được bổ sung nhiên liệu, ''Guam'' tái gia nhập Nhóm Đặc nhiệm 58.4 và khởi hành đến khu vực chiến sự trong vùng phụ cận [[Okinawa Gunto]], [[Nhật Bản]]. Đêm ngày 27 tháng 3 đến 28 tháng 3 năm 1945, Nhiệm vụ của tàu ''Guam'' do [[Đô đốc]] P. S. Low chỉ huy là đám phá sân bay trên [[Minami Daito]]. Sau đó, đến ngày 11 tháng 5, ''Guam'' được giao nhiệm vụ hộ tống các hàng không mẫu hạm rời khỏi [[Nansei Shoto]].
|