Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Sư đoàn 2 Bộ binh Quân lực Việt Nam Cộng hòa”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 29:
Mùa hè năm 1972 Trung đoàn 4 Bộ binh do Đại tá [[Lê Bá Khiếu (Đại tá, Quân lực VNCH)|Lê Bá Khiếu]]<ref>Đại tá Lê Bá Khiếu sinh năm 1934 tại Thừa Thiên, tốt nghiệp khóa 4p Võ khoa Thủ Đức (khóa 10B trừ bị Đà Lạt).</ref> làm Trung đoàn trưởng đã được điều động tăng cường để giải tỏa áp lực đối phương tại vùng giới tuyến.
 
Sau khi hoàn thành nhiệm vụ ở giới tuyến, Trung đoàn 4 vẫn do Đại tá Khiếu làm Trung đoàn trưởng được điều từ Quảng Trị trở về để phối hợp cùng Trung đoàn 5 và Trung đoàn 6. Trung đoàn 5 do Trung tá [[Võ Vàng (Trung tá, Quân lực VNCH)|Võ Vàng]]<ref>Trung tá Võ Vàng sinh năm 1940 tại Quảng Ngãi, tốt nghiệp khóa 17 Võ bị Đà Lạt.</ref> làm Trung đoàn trưởng và Trung đoàn 6 do Đại tá [[Phạm Văn Nghìn (Đại tá, Quân lực VNCH)|Phạm Văn Nghìn]]<ref>Đại tá Phạm Văn Nghìn sinh năm 1933 tại Ninh Bình, tốt nghiệp khóa 10 Võ bị Đà Lạt.</ref> chỉ huy.</ref>, đã mở cuộc hành quân tái chiếm các quận Quế Sơn, Tiên Phước thuộc tỉnh Quảng Tín. Đồng thời, Sư đoàn 2 phối hợp với các lực lượng Địa Phương Quân, Nghĩa Quân giải tỏa áp lực đối phương tại khu vực cao nguyên phía nam Quảng Ngãi. Từ chiến công phá tan mật khu Đỗ Xá năm 1970 cùng một số thắng lợi khác, các tỉnh Quảng Tín và Quảng Ngãi tạm thời yên tĩnh. Sư đoàn 2 tạm ngừng bắn từ năm 1973.
 
Trước tình hình chính trị, với áp lực của Quân đội Bác Việt tại [[Trung Bộ|miền Trung]] nên ngày 27 tháng 3 năm 1975 toàn bộ Quân khu cũng như Sư đoàn 2 tan hàng di tản ra Đà Nẵng. Và tại đây Sư đoàn 2 Bộ binh bị xóa phiên hiệu.