Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Danevirke”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n replaced: ]] and và [[, ==Tài liệu tham khảo== → ==Tham khảo== using AWB
n replaced: language=Danish → language=Đan Mạch, sát nhập → sáp nhập using AWB
Dòng 18:
|publisher=Đại học Aarhus
|website=danmarkshistorien.dk
|language=DanishĐan Mạch
|author=Else Roesdahl
|accessdate=20 December 2014}}</ref> 1848, 1864.
Dòng 47:
Truyền thuyết kể rằng nữ hoàng [[Thyra]] đã ra lệnh cho xây dựng Danevirke. Bà là vợ của vị vua đầu tiên được công nhận lịch sử Đan Mạch, [[Gorm the Old]].
 
Với sự nổi lên của các quốc gia ở châu Âu trong những năm 1800, Danevirke đã trở thành một biểu tượng mạnh mẽ cho Đan Mạch và ý tưởng độc đáo của [[người Đan Mạch]] và [[văn hóa Đan Mạch]]. Trong suốt thế kỷ 19, Đan Mạch và Đức đấu tranh chính trị và quân sự cho việc sở hữu lãnh thổ được gọi là ''Sonderjylland'' hoặc ''Slesvig'' bởi người Đan Mạch và ''Schleswig'' bởi người Đức. Hai cuộc chiến tranh đã diễn ra là [[Chiến tranh Schleswig lần thứ nhất]] (1848–1851) và [[Chiến tranh Schleswig lần thứ hai]] (1864) cuối cùng dẫn đến thất bại của Đan Mạch và sự sátsáp nhập lãnh thổ tranh chấp vào Đức. Trong bối cảnh thù địch này, Danevirke đóng một vai trò quan trọng. Đầu tiên là một rào cản văn hóa tinh thần chống lại Đức, nhưng cũng sớm như là một pháo đài quân sự cụ thể, khi nó được tăng cường với các vị trí pháo và pháo đài vào năm 1850 và 1861.
 
Vào đầu những năm 1800, Dannevirke được chọn làm khẩu hiểu của một số tạp chí quốc gia Đan Mạch đối phó với câu hỏi về quyền tự chủ của Đan Mạch, Đức, đáng chú ý nhất trong số này được xuất bản bởi [[N. F. S. Grundtvig]] vào năm 1816–19. Trong thời gian trước đó, Danevirke đã thực sự được xác định một văn hóa và ngôn ngữ biên giới giữa lãnh địa Đan Mạch và Đức, nhưng biên giới văn hóa và ngôn ngữ này đã dần di chuyển về phía bắc, và bởi thế mà lãnh thổ xa xôi về phía bắc như [[Flensburg]] trong thế kỷ 19 chủ yếu nói tiếng Đức, mặc dù vẫn là một phần của Đan Mạch.