Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chiến tranh biên giới Việt–Trung 1979”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Thêm liên kết
Thẻ: Soạn thảo trực quan Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động Sửa đổi di động nâng cao
Thêm liên kết cho sinh động bài viết
Thẻ: Soạn thảo trực quan Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động Sửa đổi di động nâng cao
Dòng 228:
===Chuẩn bị===
====Quân sự====
Theo nguồn tin từ [[Cục tình báo Trung ương Hoa Kỳ]] CIA, thì từ giữa năm [[1978]], [[Trung Quốc]] đã hoàn chỉnh các phương án tác chiến, các đơn vị quân đội [[Trung Quốc]] đã sẵn sàng mở cuộc tiến công quân sự quy mô lớn chống [[Việt Nam]], chỉ cần thời cơ đến là phát động chiến tranh. Trong những buổi họp của Trung ương [[Đảng Cộng sản]] Trung Quốc từ giữa năm [[1978]] đến cuối năm [[1978]], nhiều biện pháp trừng phạt [[Việt Nam]] bằng quân sự được đưa ra bàn thảo. Từ giữa tháng 12 năm [[1978]], [[Trung Quốc]] đã chọn lực lượng quân đội từ năm quân khu và đưa áp sát biên giới [[Trung Quốc|Trung]] - [[Việt Nam|Việt]].<ref name="maihoa"/>
 
Từ tháng 10 năm [[1978]] cho đến [[15 tháng 2]] năm [[1979]], [[Trung Quốc]] thực hiện hàng loạt các vụ tấn công thăm dò vào các vị trí phòng thủ của [[Việt Nam]] tại biên giới, với mục đích thu thập thông tin tình báo, đe dọa quân [[Việt Nam]], và đánh lạc hướng khỏi mục tiêu chính của chiến dịch sắp tới. Các cuộc tấn công nhỏ này tăng dần về quy mô và tần số khi lực lượng [[Trung Quốc]] tập trung tại biên giới ngày càng đông. Không có tài liệu gì về các cuộc tấn công thăm dò của quân [[Việt Nam]].<ref>Edward C. O'Dowd, tr. 54.</ref> Dấu hiệu đầu tiên của chiến tranh là việc [[Trung Quốc]] cắt đứt tuyến đường sắt Hữu Nghị nối liền hai nước vào ngày [[22 tháng 12]] năm [[1978]].<ref>Bùi Xuân Quang, tr. 421.</ref> Đến cuối tháng 1 năm [[1979]], khoảng 17 sư đoàn chính quy [[Trung Quốc]] (khoảng 225.000 quân) đã tập trung gần biên giới với [[Việt Nam]]. Hơn 700 máy bay chiến đấu và máy bay ném bom - 1/5 lực lượng không quân [[Trung Quốc]] - đã được đưa đến các sân bay gần biên giới.<ref>Nayan Chanda, tr. 350.</ref> Các động thái leo thang này của [[Trung Quốc]] đã được phía [[Việt Nam]] đề cập tại cuộc họp của [[Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc]] ngày [[11 tháng 2]] năm [[1979]].<ref name=Joyaux240>François Joyaux, tr. 240.</ref>
 
Từ ngày 9 đến ngày 12/ tháng 2/ năm 1979, Quân ủy Trung ương [[Đảng Cộng sản Trung Quốc]] họp hội nghị để nghe báo cáo của [[Đặng Tiểu Bình]] và đánh giá tình hình. Hội nghị quyết định tấn công [[Việt Nam]] và thành lập Bộ Chỉ huy chung. Ngày 16/ tháng 2/ năm 1979, [[Trung Quốc]] tổ chức cuộc họp phổ biến ý nghĩa của cuộc chiến tranh sắp tới chống [[Việt Nam]] cho cán bộ cao cấp nước này. Trong cuộc họp này, [[Đặng Tiểu Bình]] nêu mục tiêu, cái lợi, hại của cuộc chiến tranh chống [[Việt Nam]], nhấn mạnh đây là cuộc phản kích tự vệ, hạn chế về thời gian và không gian.<ref name="maihoa"/>
 
Để cảnh báo [[Liên Xô]] và cũng nhằm ngăn chặn bị tấn công từ hai mặt, [[Trung Quốc]] đặt toàn bộ quân đội đóng dọc biên giới Trung-Xô vào tình trạng báo động đồng thời thiết lập một sở chỉ huy quân đội mới ở [[Tân Cương]] và di tản 300.000 dân khỏi vùng biên giới với [[Liên Xô]].<ref name="Elleman">{{Chú thích web|url=http://www.vietnam.ttu.edu/events/1996_Symposium/96papers/elleviet.htm |tiêu đề=Sino-Soviet Relations and the February 1979 Sino-Vietnamese Conflict|tác giả=Bruce Elleman|ngày tháng = ngày 20 tháng 4 năm 1996 |ngày truy cập = ngày 16 tháng 2 năm 2007 |nhà xuất bản=1996 Vietnam Symposium - Vietnam Center and Archive, Texas Tech University}}</ref>
 
Để đối phó lại việc [[Trung Quốc]] tập trung bộ binh và vũ khí hạng nặng tại biên giới, cũng như việc các cuộc đột kích vũ trang ngày càng gia tăng, [[Việt Nam]] tiến hành chuẩn bị các vị trí phòng ngự, chuẩn bị tinh thần dân chúng sẵn sàng một khi chiến tranh xảy ra. Tuy nhiên [[Việt Nam]] tại thời điểm đó vẫn tin rằng [[Trung Quốc]] sẽ không tấn công, vì [[Trung Quốc]] vẫn là một nước [[Xã hội Chủ nghĩa]] anh em. Thêm nữa, [[Việt Nam]] tin rằng đa phần nhân dân [[Trung Quốc]] không ủng hộ chiến tranh và sẽ phản đối chiến tranh nổ ra. Ngoài ra, tuyên bố của [[Đặng Tiểu Bình]] chỉ một tuần trước khi chiến tranh nổ ra, rằng chiến dịch quân sự của [[Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc]] sẽ không dài hơn [[Chiến tranh Trung-Ấn|cuộc chiến 1962]] với [[Ấn Độ]], cộng với các tuyên bố của Đặng trước đó rằng chiến dịch quân sự này "giới hạn về không gian và thời gian", khiến [[Hà Nội]] tin tưởng họ có khả năng cầm chân quân [[Trung Quốc]] tại các tỉnh biên giới.<ref>Mark A. Ryan, tr. 226-228.</ref>
 
Lực lượng [[Việt Nam]] đương đầu với cuộc tấn công của [[Trung Quốc]] chủ yếu là dân quân và bộ đội địa phương. Từ vài tháng trước khi chiến tranh nổ ra, [[Hà Nội]] đã tiến hành huấn luyện và trang bị vũ khí hạng nhẹ cho dân quân tại các tỉnh biên giới. Chỉ có một số đơn vị quân chính quy tham gia chiến trận, nhất là các đơn vị phòng thủ [[Lạng Sơn]], nhưng ngay cả tại đây, lực lượng chủ yếu vẫn là dân quân và quân địa phương. [[Hà Nội]] giữ lại 5 sư đoàn chủ lực ở tuyến sau đề phòng [[Trung Quốc]] tiến sâu về đồng bằng, và đồng thời cũng để giới hạn việc cuộc chiến leo thang.<ref>Mark A. Ryan, tr. 230.</ref>
 
Từ tháng 1- năm 1979, [[Trung Quốc]] bắt đầu đẩy mạnh các hoạt động trinh sát vũ trang dọc biên giới. Trong tháng 1 và tuần đầu tiên của tháng 2- năm 1979, [[Trung Quốc]] gây ra 230 vụ xâm phạm vũ trang vào lãnh thổ [[Việt Nam]], từ gây hấn cho tới phục kích, bắt cóc người đưa về Trung Quốc, tập kích, bắn phá các đồn biên phòng và trạm gác của công an, dân quân Việt Nam cũng như các cơ sở sản xuất của người dân. Trong những vụ xâm phạm này, lính [[Trung Quốc]] đã giết trên 40 dân thường và chiến sĩ, làm bị thương hàng trăm người và bắt đi hơn 20 người. Có những vụ diễn ra sâu trong lãnh thổ [[Việt Nam]] tới 5&nbsp;km như vụ tập kích trạm gác của dân quân ở [[Bản Lầu]] ([[Hoàng Liên Sơn (tỉnh)|Hoàng Liên Sơn]]) ngày 14- tháng 1, có những vụ quy mô lớn như huy động 1 tiểu đoàn chính quy tấn công bình độ 400 ở Thanh Lòa, Cao Lộc ([[Lạng Sơn]]) ngày 10- tháng 2, có những vụ pháo kích lớn đã sử dụng cả tới [[pháo]] 85mm, [[súng cối]], [[DKB|ĐKZ]]...
 
Ngày 1- tháng 1- năm 1979, theo chỉ thị của Thường vụ [[Quân ủy Trung ương (Việt Nam)|Thường vụ Quân ủy Trung ương]] Việt Nam]], các lực lượng vũ trang biên giới được lệnh chuyển sang trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao. Ngày 15/ tháng 2, ngoại trừ các xã biên giới và một vài đơn vị, các lực lượng trên tuyến 1 được lệnh hạ cấp xuống trạng thái sẵn sàng chiến đấu tăng cường. Nhiều đơn vị tổ chức cho phần lớn bộ đội về trạng thái sinh hoạt bình thường, di chuyển, điều chỉnh lại đội hình bố trí…<ref>[https://infonet.vn/bien-gioi-phia-bac-1979-30-ngay-khong-the-nao-quen-1-post158487.info Biên giới phía Bắc 1979: 30 ngày không thể nào quên (1) - Infonet<!-- Bot generated title -->]</ref>
 
====Ngoại giao====
Ngày 12/ tháng 8/ năm 1978, trước khi tấn công [[Việt Nam]], [[Trung Quốc]] ký với [[Nhật Bản]] Hiệp ước Hòa bình, Hữu nghị có giá trị trong mười năm và sẽ tái ký sau đó nhằm tạo sự ổn định tại khu vực [[Đông Bắc Á]] có lợi cho Trung Quốc.
 
Ngày 5/ tháng 11/ năm 1978, [[Đặng Tiểu Bình]] đi thăm các nước [[ASEAN]]. Trong chuyến đi ngày Đặng nói rằng, việc [[Việt Nam]] ký Hiệp ước Việt - Xô ngày 3/ tháng 11/ năm 1978 là mối đe dọa đối với các nước [[ASEAN]], [[Đặng Tiểu Bình]] kêu gọi thành lập Mặt trận chống Liên Xô và Việt Nam, bao gồm Trung Quốc, khối nước ASEAN để cân bằng lại quyền lợi của các nước [[Đông Nam Á]] và nói rõ quyết tâm của Trung Quốc không để khu vực Đông Nam Á rơi vào tay [[Việt Nam]]. Trong chuyến đi này, Đặng Tiểu Bình công khai ý định dùng biện pháp quân sự đối phó với Việt Nam. Các nước ASEAN đều cho rằng cuộc xung đột Việt Nam - Campuchia và Việt Nam - Trung Quốc là "nhân tố không ổn định đối với hòa bình khu vực". Tuy nhiên, vì [[Việt Nam]] nghiêng về phía [[Liên Xô]] nên các nước ASEAN nhận thấy cần phải nhích lại gần [[Trung Quốc]] hơn nữa. Tại Bangkok, theo yêu cầu của Đặng Tiểu Bình, [[Thái Lan]] đồng ý cho phép máy bay Trung Quốc quá cảnh qua vùng trời Thái Lan để đi [[Campuchia]] và trở về.<ref name="maihoa"/> Theo Nayan Chanda, liên minh giữa [[Bắc Kinh]] và [[Bangkok]] đã mở ra con đường mòn Đặng Tiểu Bình xuyên qua Thái Lan và biến Thái Lan thành một cái then chặn chiến lược an toàn của Trung Hoa tại Campuchia.<ref>Nayan Chanda: Brother Enemy: The War After the War, 1988, page 394.</ref>
 
Sau đó, tháng 1 năm [[1979]], Đặng Tiểu Bình thăm Mỹ rồi tới thăm Nhật. Về mặt ngoại giao, sau khi bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ từ tháng 12 năm [[1978]], trong chuyến thăm Washington từ 28 đến [[30 tháng 1]], Đặng Tiểu Bình nhận được sự ủng hộ cần thiết của đồng minh mới Hoa Kỳ trong kế hoạch tấn công [[Việt Nam]].
Dòng 253:
Tổng thống [[Jimmy Carter]] cũng cảnh báo Đặng rằng vụ tấn công của [[Trung Quốc]], nếu xảy ra, sẽ nhận được sự ủng hộ về mặt ngoại giao hoặc quân sự quốc tế.<ref name="autogenerated2">Laurent Cesari, tr. 265.</ref><ref>François Joyaux, tr. 239.</ref> Trong chuyến đi này, Đặng Tiểu Bình đã thông báo về ý định chuẩn bị tấn công [[Việt Nam]] với mong muốn có được sự hỗ trợ về tinh thần từ phía Mỹ. Khi tiếp xúc bí mật với Brzezinski, Đặng Tiểu Bình tuyên bố: ''"Đối với Việt Nam, Trung Quốc phải chịu trách nhiệm đối phó"'' và nhấn mạnh: ''"Các ngài nhớ kỹ một điều là những lời phát biểu của tôi trong chuyến thăm nước Mỹ sẽ hoàn toàn được chứng thực bằng những hành động"''. [[Đặng Tiểu Bình]] cũng bảo đảm rằng, cuộc tấn công Việt Nam sẽ giới hạn và nhanh chóng. Trong chuyến đi của Đặng Tiểu Bình sang Mỹ, Đặng đã chuẩn bị tinh thần cho các đồng minh một cách chắc chắn rằng sẽ thực hiện sự trừng phạt như đã loan báo.<ref name="maihoa" />
 
Hai tuần sau chuyến thăm, ngay trước khi Trung Quốc tấn công Việt Nam, Đại sứ Mỹ Malcolm kín đáo khuyến cáo Ngoại trưởng [[Andrei Andreyevich Gromyko|A. Gromyko]] là [[Liên Xô]] nên tự kiềm chế trong trường hợp [[Trung Quốc]] tấn công [[Việt Nam]], để khỏi ảnh hưởng đến việc [[Quốc hội Mỹ]] sẽ thông qua Hiệp ước SALT mà [[Liên Xô]] rất mong muốn.<ref name="maihoa"/>
 
Từ ngày 1 đến ngày 13 tháng 1 năm [[1979]], phía [[Trung Quốc]] liên tiếp có nhiều phát biểu và bình luận mà nội dung là tố cáo [[Việt Nam]] xâm lược, lên án Việt Nam chiếm đóng [[Phnôm Pênh]]. Trung Quốc kêu gọi [[Campuchia Dân chủ]] đánh lâu dài và hứa sẽ ủng hộ toàn diện. Trung Quốc đưa ra Hội đồng Bảo an Dự thảo nghị quyết đòi Việt Nam rút quân, kêu gọi các nước chấm dứt viện trợ cho Việt Nam. Trước dư luận trong nước và quốc tế, Trung Quốc công khai tuyên bố: "[[Việt Nam]] là tiểu bá theo đại bá [[Liên Xô]]", "[[Trung Quốc]] quyết không để cho ai làm nhục", cuộc tiến công của Trung Quốc vào Việt Nam sắp tới là nhằm "'''dạy cho Việt Nam một bài học'''". Trước thái độ đó, báo chí và chính giới Mỹ không có phản ứng công khai, còn Thủ tướng Liên Xô [[Aleksey Kosygin|A. Kosygin]] thì nhận định: Tuyên bố của [[Đặng Tiểu Bình]] là một bản "tuyên bố chiến tranh với [[Việt Nam]]".<ref name="maihoa"/>
 
Ngày [[7 tháng 2]], [[Bắc Kinh]] báo trước về một chiến dịch tấn công [[Việt Nam]] với thông cáo chính thức của [[chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa]] phản đối việc [[quân đội Việt Nam]] tiến vào lãnh thổ [[Campuchia]] và đề nghị tất cả các quốc gia yêu hòa bình "dùng mọi biện pháp có thể để chấm dứt cuộc xâm lược dã man này".<ref>Laurent Cesari, tr. 264.</ref>
 
Ngày [[15 tháng 2]] năm [[1979]], nhân dịp 29 năm hiệp ước Trung-Xô về vấn đề [[Mông Cổ]] và thời điểm kết thúc chính thức Hiệp ước Hợp tác Trung-Xô, Đặng Tiểu Bình tuyên bố [[Trung Quốc]] chuẩn bị tấn công giới hạn Việt Nam.<ref name="Elleman"/>
 
Các lãnh đạo [[Trung Quốc]] phán đoán cuộc tấn công [[Việt Nam]] chớp nhoáng, có giới hạn sẽ không gây căng thẳng đủ để kích thích [[Liên Xô]] can thiệp trực tiếp hay quốc tế phản đối. Họ dự tính [[Liên Xô]] sẽ chỉ can thiệp giới hạn ở mức khuyến khích các dân tộc thiểu số [[Trung Quốc]] tấn công các vùng xa xôi như Nội Mông, Tân Cương hoặc gây đụng độ nhỏ ở vùng biên giới 2 nước. Tuy nhiên, để cẩn trọng, Trung Quốc vẫn di tản dân gần đường biên và lệnh các đơn vị quân đội ở biên giới với [[Liên Xô]] sẵn sàng chiến đấu.<ref name=quan /> Còn Liên Xô thì tin rằng Trung Quốc chỉ muốn xâm nhập vào lãnh thổ Việt Nam 20–30&nbsp;km rồi rút về nước do đó Việt Nam hoàn toàn đủ sức tự đối phó với Trung Quốc<ref>[https://www.bbc.com/vietnamese/vietnam-47215657 Moscow biết Đặng sẽ đánh VN nhưng tin rằng HN tự lo được], BBC Tiếng Việt, 13 tháng 2 năm 2019</ref>.
 
===Giai đoạn 1===
[[Tập tin:Vietnam1979war LS.png|phải|nhỏ|300px|Mặt trận [[Lạng Sơn]].]]
[[Tập tin:Vietnam1979war CB.png|phải|nhỏ|300px|Mặt trận [[Cao Bằng]].]]
5 giờ sáng ngày [[17 tháng 2]] năm [[1979]], lực lượng bộ binh [[Trung Quốc]] với khoảng 120.000 quân bắt đầu tiến vào [[Việt Nam]] trên toàn tuyến biên giới, mở đầu là pháo, tiếp theo là xe tăng và bộ binh.<ref name=Time>{{Chú thích web|url=http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,916622,00.html|tiêu đề= A War of Angry Cousins|nhà xuất bản=[[Time (tạp chí)|Tạp chí Time]]|ngày tháng = ngày 5 tháng 3 năm 1979 |ngày truy cập = ngày 16 tháng 2 năm 2009}}</ref><ref name=autogenerated2 /> Cánh phía đông có Sở Chỉ huy Tiền phương đặt tại [[Nam Ninh, Quảng Tây|Nam Ninh]] và mục tiêu chính là [[Lạng Sơn]]. Có hai hướng tiến song song, hướng thứ nhất do quân đoàn 42A dẫn đầu từ [[Long Châu, Sùng Tả|Long Châu]] đánh vào [[Đồng Đăng]] nhằm làm bàn đạp đánh Lạng Sơn, hướng thứ hai do quân đoàn 41A dẫn đầu từ [[Tĩnh Tây]] và Long Châu tiến vào [[Cao Bằng]] và [[Đông Khê (thị trấn)|Đông Khê]]. Ngoài ra còn có quân đoàn 55A tiến từ Phòng Thành vào [[Móng Cái]]. Cánh phía tây có Sở Chỉ huy Tiền phương đặt tại [[Mông Tự]], có 3 hướng tiến công chính. Hướng thứ nhất do các quân đoàn 13A và 11A dẫn đầu đánh vào thị xã [[Lào Cai]]. Hướng thứ hai từ [[Văn Sơn (thành phố)|Văn Sơn]] đánh vào [[Hà Giang]]. Hướng thứ 3 do sư đoàn 42D của quân đoàn 14A dẫn đầu đánh từ [[Kim Bình, Hồng Hà|Kim Bình]] vào [[Lai Châu]].<ref name=Chen106>King C. Chen, tr. 106.</ref> Tổng cộng quân [[Trung Quốc]] xâm nhập [[Việt Nam]] trên 26 điểm, các khu vực dân cư Việt Nam chịu thiệt hại nặng nhất từ đợt tấn công đầu tiên này là [[Lào Cai]], [[Mường Khương]], [[Cao Bằng]], [[Lạng Sơn]] và [[Móng Cái]].<ref name=Time/>
 
Không quân và hải quân không được sử dụng trong toàn bộ cuộc chiến. Tất cả các hướng tấn công đều có [[xe tăng]], [[pháo binh]] hỗ trợ. Quân [[Trung Quốc]] vừa chiếm ưu thế về lực lượng, vừa chủ động về thời gian tiến công, lại còn có "[[lực lượng thứ năm]]" gồm những [[người Hoa (Việt Nam)|người Việt gốc Hoa]] trên đất [[Việt Nam]]. Từ đêm [[16 tháng 2]], các tổ thám báo [[Trung Quốc]] đã mang theo bộc phá luồn sâu vào nội địa Việt Nam móc nối với "lực lượng thứ năm" này lập thành các toán vũ trang phục sẵn các ngã ba đường, bờ suối, các cây cầu để ngăn chặn lực lượng tiếp viện của [[Việt Nam]] từ phía sau lên. Trước giờ nổ súng, các lực lượng này cũng bí mật cắt các đường dây điện thoại để cô lập sở chỉ huy sư đoàn với các chốt, trận địa pháo.<ref name=SV2>Lịch sử Sư đoàn 3 Sao vàng, Chương 7, Mục 2: Ngày 17 tháng 2.</ref>
 
Tiến nhanh lúc khởi đầu, nhưng quân [[Trung Quốc]] nhanh chóng phải giảm tốc độ do gặp nhiều trở ngại về địa hình và hệ thống hậu cần quá lạc hậu phải dùng [[lừa]], [[ngựa]] và người thồ hàng.<ref name=Chen106/> Hệ thống phòng thủ của [[Việt Nam]] dọc theo biên giới rất mạnh, với các hầm hào hang động tại các điểm cao dọc biên giới do lực lượng quân sự tinh nhuệ có trang bị và huấn luyện tốt trấn giữ. Kết quả là [[Trung Quốc]] phải chịu thương vong lớn.<ref name=Chen107>King C. Chen, tr. 107.</ref> Trong ngày đầu của cuộc chiến, chiến thuật dùng biển lửa và biển người của [[Trung Quốc]] đã có kết quả tốt, họ tiến được vào sâu trong lãnh thổ [[Việt Nam]] hơn 10 dặm và chiếm được một số thị trấn. Chiến sự ác liệt nhất diễn ra tại các vùng [[Bát Xát]], [[Mường Khương]] ở tây bắc và Đồng Đăng, [[cửa khẩu Quốc tế Hữu Nghị|cửa khẩu Hữu Nghị]], [[Thông Nông]] ở đông bắc. Quân Trung Quốc cũng đã vượt [[sông Hồng]] và đánh mạnh về phía Lào Cai.<ref name=Chen107/>
 
Trong hai ngày 18 và 19 tháng 2, chiến sự lan rộng hơn. Quân đội [[Việt Nam]] kháng cự rất mạnh và với tinh thần chiến đấu cao. Quân [[Trung Quốc]] hầu như không thể sử dụng lực lượng ở mức sư đoàn mà phải dùng đội hình nhỏ và thay đổi chiến thuật. Họ tiến chậm chạp, giành giật từng đường hầm, từng điểm cao, và cuối cùng cũng chiếm được [[Mường Khương]], [[Trùng Khánh]], và [[Đồng Đăng]]. Tại [[Móng Cái]], hai bên giành giật dai dẳng. Cả hai bên đều phải chịu thương vong cao,<ref name=Chen108/> có ít nhất 4.000 lính [[Trung Quốc]] chết trong hai ngày đầu này.<ref name=Time30>{{Chú thích web|url=http://www.time.com/time/photogallery/0,29307,1879849,00.html|tiêu đề=30 Yrs. After the China-Vietnam Border War|nhà xuất bản=[[Time (tạp chí)|Tạp chí Time]]|ngày truy cập = ngày 17 tháng 2 năm 2009}}</ref> Sau hai ngày chiến tranh, quân Trung Quốc đã chiếm được 11 làng mạc và thị trấn, đồng thời bao vây [[Đồng Đăng]], thị trấn có vị trí then chốt trên đường biên giới Trung-Việt.<ref name=Time/>
[[Tập tin:XebocthepK63TQ.jpg|nhỏ|trái|Quân [[Trung Quốc]] đang di chuyển tại [[Cao Bằng]]. Đi đầu là [[xe bọc thép]] Kiểu 63 (K63).|257x257px]]
Trận chiến tại [[Đồng Đăng]] bắt đầu ngay từ ngày 17 và là trận ác liệt nhất.<ref name=Chen108/> Đây là trận địa phòng thủ của Trung đoàn 12 Tây Sơn, [[Sư đoàn 3, Quân đội Nhân dân Việt Nam|Sư đoàn 3 Sao Vàng]], [[Quân đội Nhân dân Việt Nam]]. Tấn công vào Đồng Đăng là 2 sư đoàn bộ binh, 1 trung đoàn xe tăng và chi viện của 6 trung đoàn pháo binh Trung Quốc.<ref name=SV2/> Cụm điểm tựa Thẩm Mò <ref>Thôn Thẩm Mò xã [[Phú Xá, Cao Lộc]], viết nhầm thành ''"Thâm Mô"''.</ref>, Pháo Đài, 339 tạo thế chân kiềng bảo vệ phía tây nam thị xã Đồng Đăng, do lực lượng của hai Tiểu đoàn 4 và 6, Trung đoàn 12 trấn giữ, bị Trung Quốc bao vây và tấn công dồn dập ngay từ đầu với lực lượng cấp sư đoàn. Lực lượng phòng thủ không được chi viện nhưng đã chiến đấu đến những người cuối cùng, trụ được cho đến ngày 22. Ngày cuối cùng tại [[Pháo Đài]], nơi có hệ thống phòng thủ kiên cố nhất, không gọi được đối phương đầu hàng, quân [[Trung Quốc]] chở bộc phá tới đánh sập cửa chính, dùng súng phun lửa, thả lựu đạn, bắn [[Vũ khí hóa học|đạn hóa chất]] độc vào các lỗ thông hơi làm thiệt mạng hầu hết thương binh cũng như dân quanh vùng đến đây lánh nạn.<ref name=SV3>Lịch sử Sư đoàn 3 Sao vàng, Chương 7, Mục 3: Những điểm cao bất tử.</ref> Tổng cộng trong trận [[Đồng Đăng]], Trung Quốc thương vong 2.220 lính (trong đó 531 chết).<ref>Zhang, p. 99.</ref> Về phía Việt Nam, trong số 700 bộ đội, dân quân và công an phòng thủ tại pháo đài [[Đồng Đăng]], chỉ có sáu người sống sót.<ref>[https://vtc.vn/ky-uc-1721979-chuyen-cua-nguoi-linh-song-sot-o-phao-dai-tu-thu-dong-dang-d194910.html Ký ức 17/2/1979: Chuyện của người lính sống sót ở pháo đài tử thủ Đồng Đăng - VTC News<!-- Bot generated title -->]</ref>
 
Ngày [[19 tháng 2]], [[Đặng Tiểu Bình]] trong cuộc gặp với giới ngoại giao [[Argentina]] tuyên bố đây là cuộc chiến tranh hạn chế và [[Trung Quốc]] sẽ rút quân ngay sau khi đạt được mục tiêu giới hạn.<ref name=Chen109>King C. Chen, tr. 109.</ref>
Dòng 280:
Cùng ngày, một đoàn cố vấn quân sự cao cấp của [[Liên Xô]] do Đại tướng G.Obaturovym đứng đầu tới [[Hà Nội]] hỗ trợ cho các tướng lĩnh chỉ huy của [[Việt Nam]]. Nhóm chuyên gia của Trung tướng M.Vorobevy có trách nhiệm cố vấn cho Bộ Tư lệnh lực lượng Phòng không – Không quân còn Đại tướng G.Obaturovym làm cố vấn cho Tổng Tham mưu trưởng lực lượng vũ trang Việt Nam [[Lê Trọng Tấn]] và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đại tướng [[Văn Tiến Dũng]]. [[Moskva]] yêu cầu [[Trung Quốc]] rút quân. [[Liên Xô]] cũng viện trợ gấp vũ khí cho [[Việt Nam]] qua cảng [[Hải Phòng]].
[[Tập tin:Vietnam1979war LC.png|phải|nhỏ|300px|Mặt trận [[Lào Cai]].]]
Đến [[21 tháng 2]], [[Trung Quốc]] tăng cường thêm 2 sư đoàn và tiếp tục tấn công mạnh hơn nữa. Ngày 22, các thị xã [[Lào Cai]][[Cao Bằng]] bị chiếm. Quân [[Trung Quốc]] chiếm thêm một số vùng tại [[Hà Tuyên]], [[Cao Bằng]], [[Lạng Sơn]][[Quảng Ninh]]. Chiến sự lan rộng tới các khu đô thị ven biển ở [[Móng Cái]]. Về phía [[Việt Nam]], cùng lúc với việc triển khai phòng ngự quyết liệt, khoảng từ 3 đến 5 sư đoàn (gồm 30.000 quân) cũng được giữ lại để thành lập một tuyến phòng ngự cánh cung từ [[Yên Bái]] tới Quảng Yên với nhiệm vụ bảo vệ [[Hà Nội]] và [[Hải Phòng]].<ref name=Time/>
 
Ngày [[23 tháng 2]], [[Đặng Tiểu Bình]] nhắc lại tuyên bố về "cuộc chiến tranh hạn chế" và nói sẽ rút quân trong vòng 10 ngày hoặc hơn. Đây được xem là thông điệp nhằm ngăn [[Liên Xô]] can thiệp quân sự, đáp lại kêu gọi rút quân của Mỹ, xoa dịu các nước đang lo ngại về một cuộc chiến lớn hơn, và gây khó hiểu cho [[Việt Nam]].<ref name=Chen109/> Trong khi đó, một [[tàu tuần dương|tuần dương hạm]] Sverdlov và một [[tàu khu trục|khu trục hạm]] Krivak của [[Liên Xô]] đã rời cảng từ ngày 21 tiến về phía vùng biển [[Việt Nam]]. [[Liên Xô]] cũng đã bắt đầu dùng máy bay giúp Việt Nam chở quân và vũ khí ra Bắc. Hai chuyến bay đặc biệt của [[Liên Xô]] và [[Bulgaria]] chở vũ khí, khí tài bay tới [[Hà Nội]].<ref name=Chen109/>
 
Ngày [[26 tháng 2]], thêm nhiều quân [[Trung Quốc]] tập kết quanh khu vực [[Lạng Sơn]] chuẩn bị cho trận chiến đánh chiếm thị xã này.<ref name=Chen108/> Sau khi thị sát chiến trường, Bộ Tổng tham mưu Quân đội Nhân dân Việt Nam đề xuất điều động một quân đoàn từ [[Campuchia]] cùng một tiểu đoàn pháo phản lực [[BM-21]] vừa được Liên Xô viện trợ về [[Lạng Sơn]]. Đồng thời tổ chức và huy động lại các đơn vị và các phân đội, biên chế lại một sư đoàn vừa rút lui từ chiến trường, tiến hành các hoạt động tác chiến vào sâu trong hậu phương địch.
 
Phi đoàn máy bay vận tải [[An-12]] của [[Liên Xô]] đã tiến hành không vận [[Quân đoàn 2, Quân đội Nhân dân Việt Nam]] từ Campuchia về [[Lạng Sơn]].
 
Ngày [[25 tháng 2]], tại [[Mai Sao]], [[Quân đoàn 14]] thuộc [[Quân khu 1, Quân đội Nhân dân Việt Nam]] cùng Bộ Chỉ huy thống nhất Lạng Sơn được thành lập, lực lượng bao gồm các Sư đoàn 3, 327, 338, 337 (đang từ [[Quân khu 4, Quân đội Nhân dân Việt Nam|Quân khu 4]] ra) và sau này có thêm Sư đoàn 347 cùng các đơn vị trực thuộc khác.<ref name=SV4/>
Dòng 294:
===Giai đoạn 2===
{{chính|Trận Lạng Sơn}}
Giai đoạn 2 bắt đầu từ ngày [[27 tháng 2]]. Chiến sự tập trung tại [[Lạng Sơn]] tuy giao tranh tại [[Lào Cai]], [[Cao Bằng]] và [[Móng Cái]] vẫn tiếp diễn. Trận đánh chiếm thị xã Lạng Sơn bắt đầu lúc 6 giờ sáng cùng ngày. [[Trung Quốc]] điều tới đây thêm 2 sư đoàn từ Đồng Đăng và Lộc Bình (phía đông nam Lạng Sơn), tiếp tục đưa thêm quân mới từ Trung Quốc thâm nhập Việt Nam để tăng viện.<ref name=Chen110/> Tại Lạng Sơn, các Sư đoàn 3, 337 của [[Việt Nam]] đã tổ chức phòng thủ chu đáo và phản ứng mãnh liệt trước các đợt tấn công lớn của quân [[Trung Quốc]]. Từ ngày [[2 tháng 3]], Sư đoàn 337 trụ tại khu vực cầu Khánh Khê. Sư đoàn 3 chống trả 3 sư đoàn bộ binh 160, 161, 129 cùng nhiều tăng, pháo, tiến công trên một chiều dài 20&nbsp;km từ xã [[Hồng Phong]]{{Cần chú thích}}<!-- xã Hồng Phong nào nhỉ? Huyện Văn Lãng không có xã nào tên Hồng Phong cả! --> huyện [[Văn Lãng]] đến xã [[Cao Lâu]] huyện [[Cao Lộc]]. Suốt ngày 27, ở hướng Cao Lộc, sư đoàn 129 Trung Quốc không phá nổi trận địa phòng thủ của trung đoàn 141; ở hướng đường 1B, sư đoàn 161 bị trung đoàn 12 ghìm chân; ở hướng đường 1A, trung đoàn 2 vừa chặn đánh sư đoàn 160 từ phía bắc vừa chống lại cánh quân vu hồi của sư đoàn 161 từ hướng tây bắc thọc sang. Nhưng 14 giờ ngày hôm đó, 1 tiểu đoàn [[Trung Quốc]] bí mật luồn qua phía sau bất ngờ đánh chiếm điểm cao 800, nơi đặt đài quan sát pháo binh của sư đoàn 3 Sao Vàng. Mất điểm cao 800, thế trận phòng ngự của Việt Nam ở phía tây đường 1A từ Cốc Chủ đến điểm cao 417 bị chọc thủng.<ref name=SV4/> Chiếm được điểm cao 800 và [[Tam Lung]], nhưng trong suốt các ngày từ [[28 tháng 2]] đến [[2 tháng 3]], quân Trung Quốc vẫn không vượt qua được đoạn đường 4&nbsp;km để vào thị xã Lạng Sơn, tuy đã dùng cho hướng tiến công này gần 5 sư đoàn bộ binh.<ref name=SV4/> Sau nhiều trận đánh đẫm máu giành giật các điểm cao quanh [[Lạng Sơn]], mà có trận quân phòng thủ [[Việt Nam]] đánh đến viên đạn cuối cùng, quân Trung Quốc bắt đầu bao vây thị xã Lạng Sơn ngày [[2 tháng 3]]<ref name=Chen110>King C. Chen, tr. 110.</ref> sử dụng thêm sư đoàn 162 dự bị chiến dịch của quân đoàn 54 và dùng 6 sư đoàn tấn công đồng loạt trên nhiều hướng.<ref name=SV4/> Chiều ngày 4, một cánh quân Trung Quốc đã vượt [[sông Kỳ Cùng]], chiếm điểm cao 340 và vào tới thị xã Lạng Sơn, một cánh quân khác của sư đoàn 128 Trung Quốc cũng chiếm sân bay Mai Pha, điểm cao 391 ở phía tây nam thị xã.
 
Đến đây, phía [[Việt Nam]] đã điều động các sư đoàn chủ lực có xe tăng, pháo binh, không quân hỗ trợ áp sát mặt trận, chuẩn bị phản công giải phóng các khu vực bị chiếm đóng. [[Quân đoàn 14]] với các sư đoàn 337, 327, 338 hầu như còn nguyên vẹn đang bố trí quân quanh thị xã Lạng Sơn. Ngày 27/ tháng.2, [[Quân đoàn 2]] - Binh đoàn Hương Giang đang làm nhiệm vụ truy quét [[Khmer Đỏ]] tại Kampot, Kampong Som ([[Campuchia]]) cũng được lệnh cơ động gấp toàn bộ lực lượng về nước, tập kết sau lưng Quân đoàn 14.<ref name=SV4>Lịch sử Sư đoàn 3 Sao vàng, Chương 7, Mục 4: Trước cửa ngõ thị xã Lạng Sơn.</ref>
 
Ngày [[3 tháng 3]], [[Quân đoàn 1]] – Binh đoàn Quyết Thắng nhận lệnh cho Sư đoàn bộ binh 320B (sau này đổi thành 390 - đoàn Đồng Bằng, gồm Trung đoàn bộ binh 27, 48, 64 và Trung đoàn pháo binh 54) được tăng cường Trung đoàn bộ binh 209 (đoàn Sông Lô) thuộc Sư đoàn bộ binh 312 (đoàn Chiến Thắng) và tiểu đoàn pháo tầm xa 130mm của Lữ đoàn pháo binh 45 (đoàn Tất Thắng) cấp tốc hành quân lên Lạng Sơn.
 
===[[Trung Quốc]] rút quân===
[[Tập tin:Chinese solders in Vietnam 1979a.jpg|nhỏ|phải|250px|Những tù binh [[Trung Quốc]] bị canh giữ bởi nữ dân quân [[Việt Nam]].]]
[[Tập tin:A Chinese prisoner in Vietnam.jpg||nhỏ|phải|250px|Một tù binh [[Trung Quốc]] bị trói giật cánh [[Khuỷu tay|khuỷu]].]]
Tối ngày 4- tháng 3, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 5 thông qua và bắt đầu triển khai phương án mở chiến dịch phản công. Cùng thời điểm này lực lượng tăng cường của [[Quân đoàn 1]] cũng đã hoàn tất triển khai vào vị trí chiến đấu trên tuyến Chi Lăng-Đồng Mỏ-Hữu Kiên phía nam thị xã. Trung đoàn pháo binh 204 với 3 hệ thống (36 dàn phóng) tiễn bắn loạt 40 nòng [[BM-21]] đã tập kết và lấy phần tử sẵn sàng khai hỏa. [[Quân đoàn 2]] cũng thực hiện chuyển quân thần tốc bằng cả đường biển, đường bộ, đường sắt và đường không bắt đầu từ ngày 6/ tháng 3, đến ngày 11/ tháng 3 những đơn vị đầu tiên của quân đoàn gồm Sư đoàn bộ binh 304 (đoàn Vinh Quang), Lữ đoàn pháo binh 164 (đoàn Bến Hải), Lữ đoàn phòng không 673, tiểu đoàn trinh sát… đã về tới [[Hà Nội]].
 
Các phi đội thuộc Trung đoàn không quân 917 (đoàn Đồng Tháp), 935 (đoàn Đồng Nai) và 937 (đoàn Hậu Giang) gồm 10 trực thăng [[UH-1]], 3 máy bay trinh sát U-17, 10 máy bay cường kích [[A-37]], 10 máy bay tiêm kích bom [[Northrop F-5|F-5]] lần lượt được triển khai ở căn cứ Hòa Lạc, Kép, Bạch Mai và Nội Bài, cùng với các phi đội tiêm kích [[MIG-17|MiG-17]], [[MIG-21|MiG-21]] của Sư đoàn không quân 371 (đoàn Thăng Long) đặt trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao độ. Ở phía Nam, trực thăng và máy bay vận tải của Trung đoàn không quân 916 (đoàn Ba Vì), 918 và Đoàn bay 919 Tổng cục Hàng không Dân dụng phối hợp với [[không quân Liên Xô]] vận chuyển Quân đoàn 2 ra Bắc. Đoàn bay 919 còn sử dụng máy bay vận tải [[IL-14]] (có [[MIG-21|MiG-21]] yểm hộ) bay nhiều chuyến thả dù tiếp tế cho lực lượng vũ trang [[Việt Nam]] ở khu vực xã Canh Tân-Minh Khai, Thạch An (Cao Bằng).
 
Ngày [[5 tháng 3]] năm [[1979]], [[Việt Nam]] ra lệnh tổng động viên toàn quốc.<ref name=autogenerated3>Laurent Cesari, tr. 266.</ref> Trưa cùng ngày, [[Bắc Kinh]] tuyên bố đã "hoàn thành mục tiêu chiến tranh", "chiến thắng" và bắt đầu rút quân. Ngày hôm sau quân [[Trung Quốc]] rút về phía bắc [[sông Kỳ Cùng]].
 
Ngày [[6 tháng 3]] năm [[1979]], Ban Bí thư Trung ương [[Đảng Cộng sản Việt Nam]] ra Chỉ thị số 69, nhận định về tình hình và đưa ra chủ trương trong điều kiện [[Trung Quốc]] rút quân. Chỉ thị này khẳng định: ''""Trong khi chấp nhận cho địch rút quân, chúng ta luôn luôn phải nâng cao cảnh giác, tăng cường quốc phòng, sẵn sàng giáng trả địch đích đáng, nếu chúng lật lọng, trở lại xâm lược nước ta lần nữa (...) Không được một chút mơ hồ nào đối với âm mưu cơ bản của bọn phản động [[Trung Quốc]] là thôn tính nước ta, khuất phục nhân dân ta (...) luôn luôn sẵn sàng chuẩn bị chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, đập tan bọn xâm lược (...) cần giương cao chính nghĩa của ta, bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc và bảo vệ hòa bình, xúc tiến việc hình thành mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ, bảo vệ Việt Nam".''<ref name="maihoa"/> Ngày [[7 tháng 3]], Việt Nam tuyên bố rằng để thể hiện "thiện chí hòa bình", [[Việt Nam]] sẽ cho phép [[Trung Quốc]] rút quân.<ref name=Chen111>King C. Chen, tr. 111.</ref> [[Bộ Quốc phòng Việt Nam]] quyết định cho dừng chiến dịch phản công.
 
Mặc dù [[Trung Quốc]] tuyên bố rút quân, chiến sự vẫn tiếp diễn ở một số nơi. Dân thường Việt Nam vẫn tiếp tục bị giết, chẳng hạn như vụ [[Thảm sát Đổng Chúc|thảm sát ngày 9 tháng 3]] tại thôn Đổng Chúc, xã Hưng Đạo, huyện [[Hòa An]], [[Cao Bằng]], khi quân Trung Quốc đã dùng búa và dao giết 43 người, gồm 21 phụ nữ và 20 trẻ em, trong đó có 7 phụ nữ đang mang thai, rồi ném xác xuống giếng hoặc chặt ra nhiều khúc rồi vứt hai bên bờ suối.<ref name="SGTT">{{chú thích sách|author=Huy Đức|title=Biên Giới Tháng Hai (2009-1979)|publisher= Báo Sài Gòn Tiếp Thị|date = ngày 9 tháng 2 năm 2009 |pages=6 }}</ref> Trong thời gian chuẩn bị rút quân, [[Trung Quốc]] còn phá hủy một cách có hệ thống toàn bộ các công trình xây dựng, từ nhà dân hay cột điện, tại các thị xã, thị trấn [[Sa Pa|Sapa]], [[Đồng Đăng]], [[Lạng Sơn (thành phố)|Lạng Sơn]],...<ref name="SGTT"/>
 
[[Sư đoàn 337]] của Việt Nam, lên tham chiến từ ngày [[2 tháng 3]] tại khu vực cầu Khánh Khê ở Lạng Sơn để chi viện cho các đơn vị đang chặn đánh quân [[Trung Quốc]]. Sư đoàn này đến nơi quá muộn để thay đổi cục diện trận đánh tại Lạng Sơn, nhưng đã cùng sư đoàn 338 tổ chức phản kích đánh vào quân Trung Quốc rút lui qua ngả Chi Mã.<ref>Edward O'Dowd, trang 65.</ref>
Dòng 318:
 
===Việt Nam phản kích===
Phía Quân đội [[Việt Nam]] để trả đũa cũng đã phản kích đánh vào hai thành phố biên giới của [[Trung Quốc]] là [[Ma Lật Pha]], [[Bằng Tường]], [[Ninh Minh]], [[Hà Khẩu]] và [[Đông Hưng]]<ref>{{Chú thích web | url = http://books.google.com.au/books?id=vY4tBfqGvZ4C&pg=PA110&lpg=PA106&lr=&as_brr=3&hl=ja&output=html | tiêu đề = China's War with Vietnam, 1979: Issues, Decisions, and Implications | tác giả 1 = | ngày = | ngày truy cập = 14 tháng 10 năm 2015 | nơi xuất bản = Google Books | ngôn ngữ = }}</ref>. Sau đó rút quân về biên giới để phòng thủ.<ref name="maihoa"/> Ngày 1/ tháng 3/ năm 1979, [[AFP]][[Tân Hoa Xã]] đều xác nhận có một cuộc đột kích “cảm tử” vào phi trường Ninh Minh trong tỉnh [[Quảng Tây]], cách xa biên giới 40&nbsp;km.
 
==Diễn biến liên quan==