Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đạo Tín”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
[[Tập tin:Tứ tổ Đạo Tín.gif|nhỏ|Đại sư Đạo Tín]]
Đại sư '''Đạo Tín''' (zh. ''dàoxìn'' 道信, ja. ''dōshin''), [[580]]-[[651]], là [[Thiền sư Trung Quốc]], Tổ thứ tư của [[Thiền tông]]. Sư là đệ tử tâm truyền của [[Tăng Xán|Tam tổ Tăng Xán]]. Sư có hai đệ tử nối pháp là [[Hoằng Nhẫn|Đại sư Hoằng Nhẫn]], kế thừa tổ vị Ngũ Tổ và Thiền sư Pháp Dung, người sáng lập [[Ngưu Đầu Thiền|Ngưu Đầu Tông]] nổi tiếng trong lịch sử [[Thiền tông|Thiền Tông Trung Quốc]]. Dưới sự giáo hòa cùa sư, [[Thiền tông|Thiền Tông]] bắt đầu được biết đến rộng rãi và dần dần thịnh hành. Sư có để lại tác phẩm Bồ-tát Giới Pháp được lưu hành rộng rãi trong thiền lâm và quyển Nhập Đạo An Tâm Yếu Phương Tiện Pháp Môn.
 
== Cơ duyên ==
Dòng 6:
Sư thuộc [[Tư Mã (họ)|họ Tư Mã]], Dòng họ lâu đời ở [[Hà Nội (Trung Quốc)|Hà Nội]], Trung Quốc, sau gia đình sư dời đến huyện Quảng Tế, Kỳ Châu. Lúc sư sinh đã dị thường. Từ bé sư đã đọc [[Kinh Phật|Kinh]] và ưa chuộng các môn học giải thoát của [[Phật giáo|Phật giáo,]] như là đã có duyên từ trước.
 
Sau đó sư xuất gia và đến [[Nhà Tùy|thời Tùy]], niên hiệu Khai Hoàng năm thứ 12, [[Nhâm Tý]], lúc mới 14 tuổi, sư đến lễ [[Tăng Xán|Tổ Tăng Xán]] nói: <nowiki>''</nowiki> Nguyện Hòa thượng từ bi ban cho con pháp môn cởi mở<nowiki>''</nowiki>. Tổ hỏi: <nowiki>''</nowiki>Ai trói buộc ông?<nowiki>''</nowiki>. Sư nói: <nowiki>''</nowiki>Chẳng ai buộc cả<nowiki>''</nowiki>. Tổ nói: <nowiki>''</nowiki>Vậy cớ gì phải cởi mở<nowiki>''</nowiki>. Sư nghe vậy liền đại ngộ.
 
Sau đó, ở lại theo hầu cận Tổ trong 9 năm, rồi thọ giới tại [[Cát Châu]]. Sư rất tận tâm hầu hạ thầy, Tổ thường nêu lẽ huyền vi ra hỏi sư để kiểm tra xem đã triệt ngộ chưa, rồi truyền [[Cà-sa|y cà sa]] và [[Pháp (Phật giáo)|pháp]], sau đó đọc kệ:<blockquote>'''Phiên âm:'''