Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Meconopsis autumnalis”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n replaced: ) → ) using AWB
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 6:
|authority = [[Paul Egan|P.A.Egan]]
}}
'''''Meconopsis mùa thuautumnalis''''', '''cây anh túc thu Nepal''', là một loại '''cây anh túc''' có màu vàng thuộc dãy Robustae, và là [[Đặc hữu|loài đặc hữu của]] [[Meconopsis betonicifolia|dãy núi]] Ganesh thuộc miền trung [[Nepal]], nơi nó được phát hiện vào năm 2008 trong một cuộc thám hiểm với mục đích nghiên cứu của Đại học Aberdeen.<ref>[http://issuu.com/bulblog/docs/www.srgc.org.uk Egan, P.A. (2010). Expedition ''Meconopsis''.] ''The Rock Garden'' 124: 46–61.</ref> Ngoài một số đặc điểm hình thái, các loài này đặc trưng bởi thời gian ra hoa muộn của nó, trong đó có khả năng cao hơn dẫn đến một rào cản đối với dòng gen và phân kỳ tiến hóa tiếp theo từ mối quan hệ chặt chẽ và đối xứng của loài ''Meconopsis paniculata''.<ref>[http://www.mapress.com/phytotaxa/content/2011/f/pt00020p056.pdf Egan, P.A. (2011). ''Meconopsis autumnalis'' and ''M. manasluensis'' (Papaveraceae), two new species of Himalayan poppy endemic to central Nepal with sympatric congeners.] ''Phytotaxa'' 20 47-56.</ref>
 
Mẫu vật của ''M.'' autumnalis đã được thu thập hai lần trước đó, bởi J.D.A Stainton trong chuyến thám hiểm năm 1962 của ông với S.A Bowes Lyon đến miền trung Nepal,<ref>Stainton, J.D.A. (1964). ''Notes on a journey in East and Central Nepal 1964 with brief notes on journeys in East Nepal 1956 and in Central Nepal in 1962.'' British Museum (privately published), 51 pp.</ref> và trên chuyến thám hiểm thực vật của Ganesh Himalaya do [[Đại học Tōkyō|Đại học Tokyo]] thực hiện năm 1994.<ref>Ohba, H. & Ikeda, H. (1999). ''A contribution to the flora of Ganesh Himal, Central Nepal (Nature and Culture, No. 5).'' University Museum-University of Tokyo, 84 pp.</ref> Tuy nhiên, mặc dù được công nhận là đặc tính mới của loại cây có liên quan đến các chú thích của Stainon đi kèm với loài paratype (một loài được mô tả là dễ phân biệt với ''M. paniculata''), nhưng mãi đến năm 2008 các mẫu vật mới và kết quả quan sát thực địa mới biết được tình trạng thực sự của loài cây mới đã được nhận ra. Nó được chính thức mô tả vào năm 2011.