Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Cung Nhượng Chương Hoàng hậu”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Đã lùi lại sửa đổi của Dang Thien2009 (Thảo luận) quay về phiên bản cuối của 2402:800:6205:76C4:751E:953B:AA83:CC40 Thẻ: Lùi tất cả |
|||
Dòng 1:
{{Thông tin nhân vật hoàng gia
|
|
| title = [[Minh Tuyên Tông]] [[Hoàng hậu]]
| tước hiệu = [Hoàng thái tôn phi; 皇太孙妃]<br>[Hoàng thái tử phi; 皇太子妃]<br>[Hoàng hậu; 皇后] (phế truất)<br>[Tĩnh Từ tiên sư; 静慈仙师] (truy phong)<br>[Hoàng hậu; 皇后] (truy phong)
|
| tiền nhiệm 1 = <font color = "blue">[[Thành Hiếu Chiêu hoàng hậu|Thành Hiếu Chiêu Hoàng hậu]]</font>
|
| con cái = Thuận Đức công chúa<br>
▲| spouse = [[Minh Tuyên Tông]]<br>Chu Chiêm Cơ
|
▲| full name = Hồ Thiện Tường (胡善祥)
| hoàng tộc = [[nhà Minh]]
▲| posthumous name = <font color = "grey">Cung Nhượng Thành Thuận Khang Mục Tĩnh Từ Chương hoàng hậu</font><br/>(恭讓誠順康穆静慈章皇后)
|
|
| sinh = [[11 tháng 5]], [[1402]]
| nơi sinh = [[Tế Ninh]]
|
| ngày an táng =
▲| place of death = [[Tử Cấm Thành]], [[Bắc Kinh]]
▲| place of burial = [[Kim Sơn]], [[Bắc Kinh]]
}}
'''Cung Nhượng Chương Hoàng hậu''' ([[chữ Hán]]: 恭讓章皇后
Về sau, [[Minh Tuyên Tông]] sủng ái [[Hiếu Cung Chương hoàng hậu|Tôn
==Tiểu sử==
'''Cung Nhượng Chương
Bà có 2 anh trai là ''Hồ An'' (胡安) và ''Hồ Tuyên'' (胡瑄), ngoài ra còn có bảy người chị em, bà là người thứ 3. Đại trưởng tỷ của bà là ''Hồ Thiện Vi'' (胡善围), được làm ''"Nữ quan"'' dưới thời [[Minh Thái Tổ]], thăng làm ''"Sử quan"'' (使官).
Năm Vĩnh Lạc thứ 15 ([[1417]]), Hồ thị nổi danh mỹ mạo xuất chúng, được tuyển làm hôn phối với Hoàng thái tôn [[Chu Chiêm Cơ]], được gọi là '''Hoàng thái tôn phi''' (皇太孙妃). Sau khi Nhân Tông tức vị, trở thành [[Hoàng thái tử phi]]. Năm Hồng Hi, Tuyên Đức nguyên niên ([[1425]]), [[tháng 6]], Thái tử Chiêm Cơ kế vị, tức [[Minh Tuyên Tông]], Hồ thị được sách lập làm [[Hoàng hậu]]. Cả nhà bà được hiển quý, cha bà trở thành [[Quang lộc khanh]] (光禄卿); kiêm chức [[Phiêu Kị tướng quân]] (骠骑将军); [[Trung quân Đô đốc phủ Thiêm sự]] (中军都督府佥事). Anh trai là Hồ An trở thành [[Phủ tiền vệ Chỉ huy thiêm sự]] (府前卫指挥佥事).▼
Năm Vĩnh Lạc thứ 15 ([[1417]]), bà nổi danh mỹ mạo xuất chúng, được tuyển làm hôn phối với Hoàng thái tôn [[Chu Chiêm Cơ]], được gọi là '''Hoàng thái tôn phi''' (皇太孙妃). Sau khi [[Minh Nhân Tông]] tức vị, bà trở thành '''Hoàng thái tử phi''' (皇太子妃).
▲
Tuy
== Phế hậu ==
▲Tuy làm Hoàng hậu, bà không được Tuyên Tông sủng ái, cũng không có người con trai nào, trong khi đó Tuyên Tông sủng ái hồng nhan tri kỉ từ khi còn trẻ của mình là Tôn Quý phi, do vậy có ý phế Hậu. Năm Tuyên Đức thứ 3 ([[1428]]), [[mùa xuân]], viện việc Hồ Hoàng hậu không sinh con trai, chỉ có hai con gái, nên Minh Tuyên Tông dự bị Phế hậu.
Năm Tuyên Đức thứ 3 ([[1428]]), [[mùa xuân]], viện việc Hồ Hoàng hậu không sinh được con trai, chỉ có hai con gái nên [[Minh Tuyên Tông]] dự bị Phế hậu.
Các đại thần ''Trương Phụ'', ''Kiển Nghĩa'' (蹇义), ''Hạ Nguyên Cát'' (夏原吉), ''Dương Sĩ Kì'' (杨士奇), ''Dương Vinh'' (杨荣) được triệu vào cung, [[Minh Tuyên Tông]] dụ rằng: ''"Trẫm 30 tuổi không con, mà Trung cung nhiều lần không sinh dục được, thân lại mang bệnh. Nay Quý phi có con, nên lập làm người kế thừa, phu mẫu lấy tử quý, nên để Quý phi vào vị trí Trung cung"''. Các đại thần dâng sớ phản đối ý định, tuy vậy [[Minh Tuyên Tông]] vẫn không nghe, ra chỉ buộc Hồ Hoàng hậu nhượng vị. Về vị trí [[Hoàng hậu]], [[Minh Tuyên Tông]] lập sủng phi là [[Hiếu Cung Chương hoàng hậu|Tôn Quý phi]] lên thay.
Năm Chính Thống thứ 7 ([[1442]]), [[tháng 8]], Thái hoàng thái hậu Trương thị qua đời, Hồ thị đến lễ tang, nhưng bị xếp vào hàng tần phi do ý của Tôn Thái hậu. Sang năm ([[1443]]), con gái duy nhất còn sống là [[Thuận Đức công chúa]] qua đời, Hồ thị buồn bực rồi cũng qua đời cùng năm với con gái vào ngày [[8 tháng 12]] (âm lịch), hưởng niên 42 tuổi. Khi đình thần nghị luận dùng lễ nào an táng, Dương Sĩ Kỳ đề nghị dùng lễ Hoàng hậu, nhưng đa phần đều sợ Tôn Thái hậu nên e dè, bèn dùng lễ tần ngự an táng, thụy là '''Tĩnh Từ tiên sư''' (静慈仙师), an táng tại [[Kim Sơn]]<ref>《明史 后妃列传一》: 正統七年十月,太皇太后崩,后痛哭不已,逾年亦崩,用嬪御禮葬金山。</ref>.▼
▲Năm Chính Thống thứ 7 ([[1442]]), [[tháng 8]], [[Trương hoàng hậu (Minh Nhân Tông)|Tuyên Đức Thái hoàng thái hậu
Năm Thiên Thuận thứ 6 ([[1462]]), [[Hiếu Cung Chương hoàng hậu|Tôn Thái hậu]] qua đời. Bấy giờ, [[Hoàng hậu]] của [[Minh Anh Tông]] là [[Hiếu Trang Duệ hoàng hậu|Hiếu Trang Duệ Hoàng hậu]] xin niệm tình bà hiền đức, vô tội bị phế, mà khi mất triều thần đều sợ [[Hiếu Cung Chương hoàng hậu|Tôn Thái hậu]] nên an táng còn sơ sài, xin phục lại tôn vị cho bà và hưởng theo lễ vốn có. [[Minh Anh Tông]] đem chuyện này hỏi Đại học sĩ ''Lý Hiền'' (李贤), ông nói: ''"Tâm này của bệ hạ, thiên địa quỷ thần đều cảm. Thần thấy nên lấy lăng tẩm, hưởng điện, thần chủ đều theo thể thức Phụng Tiên điện, thứ xin bệ hạ minh hiếu"''.
Năm thứ 7 ([[1463]]), [[tháng 7]], [[Minh Anh Tông]] chính thức truy tôn thụy hiệu cho bà là '''Cung Nhượng Thành Thuận Khang Mục Tĩnh Từ Chương Hoàng hậu''' (恭讓誠順康穆静慈章皇后), tu sửa lăng tẩm, nhưng không đưa vào [[Thái miếu]] mà thờ tại nơi riêng biệt.
== Hậu duệ ==
#
#
==Tham khảo==
{{tham khảo
* [[Minh sử]] - Liệt truyện đệ nhất hậu phi - ''Minh Tuyên Tông
▲{{Hoàng hậu nhà Minh}}
[[Thể loại:Hoàng hậu nhà Minh]]
|