Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Sia”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Ngomanh123 (thảo luận | đóng góp)
n Đã lùi lại sửa đổi của 2405:4800:58C7:5CB6:A11F:716A:AADA:F8F3 (Thảo luận) quay về phiên bản cuối của Tuanminh01
Thẻ: Lùi tất cả
AlphamaEditor, thêm thể loại, Executed time: 00:00:10.8364281 using AWB
Dòng 41:
}}
 
'''Sia Kate Isobelle Furler''' ({{IPAc-en|icon|ˈ|s|iː|ə}}; sinh 18 tháng 12 năm 1975), hay thường được biết đến với cái tên ngắn gọn là '''Sia''', là một ca sĩ kiêm sáng tác nhạc,<ref>{{chú thích báo |url=http://uk.reuters.com/article/us-music-charts-sia-idUKKBN0FL2SM20140716 |title=Singer-songwriter Sia snags first No. 1 on U.S. Billboard chart |date=16 tháng 7 năm 2014 |work=Reuters |access-dateaccessdate =ngày 26 tháng 5 năm 2017}}</ref> nhà sản xuất thu âm và đạo diễn video âm nhạc người Úc. Cô bắt đầu sự nghiệp là một ca sĩ thành viên trong ban nhạc [[Jazz|acid jazz]] Crisp ở khu vực Adelaide vào giữa những năm 90. Vào năm 1997, khi ban nhạc Crisp giải tán, cô ra mắt [[album phòng thu]] đầu tay của cô, có tựa đề ''OnlySee'' ở Úc. Sau đó, cô chuyển sang sinh sống ở London, Anh và là giọng hát chính của bộ đôi Zero 7.
 
Vào năm 2000, cô ký hợp đồng với phòng thu âm [[Dance Pool]] của hãng [[Sony Music]] và phát hành album phòng thu thứ hai của mình, ''[[Healing Is Difficult]]'', vào năm tiếp theo. Không hài lòng với việc quảng bá đĩa thu âm, cô ký hợp đồng với hãng [[Go! Beat Records|Go! Beat]] và phát hành album phòng thu thứ ba, ''[[Colour the Small One]]'', vào năm 2004. Dự án trên cuối cùng cũng đã kết nối được với đối tượng khán giả chủ đạo, và vì thế Sia đã di chuyển đến New York vào năm 2005 và bắt đầu chuyến lưu diễn của mình khắp nước Mỹ. Cô phát hành album phòng thu thứ tư và thứ năm của mình, ''[[Some People Have Real Problems]]'' và ''[[We Are Born]]'', vào các năm 2008 và 2010. Sau đó cô quyết định "nghỉ giải lao", tập trung vào việc sáng tác nhạc cho các nghệ sĩ khác. Các tác phẩm này của cô bao gồm những sản phẩm hợp tác âm nhạc hết sức thành công như "[[Titanium (bài hát)|Titanium]]" (với [[David Guetta]]), "[[Diamonds (bài hát của Rihanna)|Diamonds]]" (với [[Rihanna]]) và "[[Wild Ones (bài hát)|Wild Ones]]" (với [[Flo Rida]]).
Dòng 49:
== Cuộc đời và sự nghiệp ==
=== 1975–1997: Cuộc sống đầu đời và khởi đầu của sự nghiệp ===
Sia Kate Isobelle Furler được sinh ra vào ngày 18 tháng 12 năm 1975 tại [[Adelaide]], Nam Úc. Cha cô, Phil Colson, là một nhạc công, và mẹ cô, Loene Furler là một giảng viên nghệ thuật.<ref name="Harry"/> Sia còn là cháu gái của nam diễn viên kiêm ca sĩ Kevin Colson.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.smh.com.au/entertainment/theatre/kevin-colson-confesses-all-of-his-career-in-starry-firmament-20140926-10meub.html|tiêu đề=Kevin Colson confesses all of his career in starry firmament|work=[[The Sydney Morning Herald]]|họ 1=Craven|tên 1=Peter|ngày tháng=26 tháng 9 năm 2014|ngày truy cập=ngày 16 tháng 2 năm 2015}}</ref> Sia nói rằng khi còn nhỏ, cô hay bắt chước phong cách biểu diễn của [[Aretha Franklin]], [[Stevie Wonder]] và Sting, những người được cô xem là những ảnh hưởng đầu tiên trong đời.<ref name="NPR">{{cite interview|url=http://www.wbur.org/npr/19075503/sia-learns-to-sound-like-herself|title=Sia Learns to Sound Like Herself| archiveurl=https://web.archive.org/web/20120320052105/http://www.wbur.org/npr/19075503/sia-learns-to-sound-like-herself|first=Alex|last=Cohen|authorlink=Alex Cohen|publisher=[[NPR Music]]|date=ngày 15 Februarytháng 2 năm 2008|archivedate=ngày 20 Marchtháng 3 năm 2012}}</ref> Cô theo học tại Trường Trung học Adelaide.<ref name="Harry">{{cite journal|url=http://www.mjmharry.com/docs/Sia-Furler.pdf| archiveurl=https://web.archive.org/web/20101105010101/http://www.mjmharry.com/docs/Sia-Furler.pdf|title=Sia Sensation|first=Michael|last=Harry|journal=[[The Advertiser (Adelaide)|The Adelaide Advertiser]]|pages=24–26|format=PDF|archivedate=ngày 5 Novembertháng 11 năm 2010}}</ref> Giữa những năm 1990, Sia bắt đầu sự nghiệp của mình với tư cách là một ca sĩ trong ban nhạc acid jazz Crisp.<ref name="Harry"/> Sia đã hợp tác với ban nhạc và đóng góp cho hai [[EP|đĩa mở rộng]] của họ: ''Word and the Deal'' (1996) và ''Delirium'' (1997).<ref>''Word and the Deal'' and ''Delirium'':
*{{Chú thích web |url=http://trove.nla.gov.au/work/15875159?selectedversion=NBD12798813 |tiêu đề=Word and the deal / Crisp. [sound recording] |nhà xuất bản=[[National Library of Australia|Thư viện quốc gia Úc]] |url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20150114223832/http://trove.nla.gov.au/work/15875159?selectedversion=NBD12798813 |ngày lưu trữ=ngày 14 Januarytháng 1 năm 2015 |url hỏng=yes}}
*{{Chú thích web|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20150115020959/http://trove.nla.gov.au/work/24518036?q&versionId=29594043 |url=http://trove.nla.gov.au/work/24518036?q&versionId=29594043 |tiêu đề=Delerium / Crisp. [sound recording] |nhà xuất bản=National Library of Australia |ngày lưu trữ=ngày 15 Januarytháng 1 năm 2015 |url hỏng=yes}}</ref> Năm 1997, ban nhạc Crisp tan rã,<ref name="SMHSia">{{Chú thích web|url=http://www.smh.com.au/entertainment/music/sia-furler-fame-does-not-become-her-20100617-yjdr.html|tiêu đề=Sia Furler: Fame does not become her|work=[[The Sydney Morning Herald]]|tên 1=Andrew|ngày tháng=ngày 18 Junetháng 6 năm 2010|họ 1=Murfett|ngày truy cập=ngày 16 Februarytháng 2 năm 2015}}</ref> Sia phát hành album đầu tay của cô mang tên ''OnlySee'' với hãng Flavoured Records tại Úc, vào ngày 23 tháng 12.<ref name="nloa">{{Chú thích web|url=http://trove.nla.gov.au/work/7556295?selectedversion=NBD13682423|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20131225133718/http://trove.nla.gov.au/work/7556295?selectedversion=NBD13682423| tiêu đề=Onlysee / Sia Furler. [sound recording]|nhà xuất bản=National Library of Australia|ngày lưu trữ=ngày 25 Decembertháng 12 năm 2013}}</ref> Album đã bán được hơn 1.200 bản.<ref>{{Chú thích web|tác giả 1=Leon |tiêu đề=Sia's first album onlysee |url=http://boyprincess.com/why-it-bothers-people-that-sia-hides-her-face/d13b98750d6a-original/ |website=Boy Princess |ngày truy cập=ngày 28 Augusttháng 8 năm 2015 |ngày tháng=ngày 1 Marchtháng 3 năm 2015 |url hỏng=yes |url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20160106063531/http://boyprincess.com/why-it-bothers-people-that-sia-hides-her-face/d13b98750d6a-original/ |ngày lưu trữ=ngày 6 Januarytháng 1 năm 2016 }}</ref><ref>{{Chú thích web| tiêu đề=Sia| url=http://www.discogs.com/artist/21991-Sia|website=Discogs|ngày truy cập=ngày 28 Augusttháng 8 năm 2015}}</ref> Không giống với những album sau này, ''OnlySee'' được bày bán trên thị trường thương mại dưới cái tên đầy đủ của cô, "Sia Furler". Album được sản xuất bởi Jesse Flavell.<ref>[https://trove.nla.gov.au/work/7556295?selectedversion=NBD13682423 "Onlysee (sound recording) / Sia Furler"], Flavoured Records, 1997, Trove.nla.gov.au, accessed ngày 8 Januarytháng 1 năm 2018</ref> Bài hát "Soon" được Sia thu âm lại dưới cái tên mới là "Sober and Unkissed" và được góp mặt vào album năm 2001 của cô, ''Healing Is Difficult''.{{cn|date = tháng 1 năm 2018}}
 
=== 1997–2006: Zero 7, ''Healing Is Difficult'' và ''Colour the Small One'' ===
[[FileTập tin:Sia Furler in concert (cropped).jpg|thumb|left|upright|Sia biểu diễn trong một buổi hòa nhạc vào năm 2006]]
Sau khi ban nhạc Crisp tan rã vào năm 1997, Sia di chuyển đến London, nơi mà cô sẽ biểu diễn với tư cách là một giọng ca nền cho ban nhạc Anh Jamiroquai.<ref name=AllMusic>{{Chú thích web|url=http://www.allmusic.com/artist/sia-mn0000753742/biography |tiêu đề=Sia Biography |nhà xuất bản=[[AllMusic]] |tên 1=Andrew |họ 1=Leahey |url lưu trữ=https://www.webcitation.org/6WL5RCnrD?url=http://www.allmusic.com/artist/sia-mn0000753742/biography |ngày lưu trữ=ngày 14 Februarytháng 2 năm 2015 |url hỏng=yes |df=dmy }}</ref> Cô đồng thời cũng cung cấp giọng hát chính cho ban nhạc downtempo người Anh Zero 7 trong ba album phòng thu đầu tiên của họ và lưu diễn cùng ban nhạc.<ref name="Verrico"/> Trong album vào năm 2001 của Zero 7, ''Simple Things'', Sia đóng góp giọng hát cho hai bài hát: "Destiny" và "Distractions."<ref name=allmusicsimple>{{Chú thích web| tiêu đề=Simple Things – Zero 7|url=http://www.allmusic.com/album/simple-things-mw0000017246|nhà xuất bản=AllMusic|ngày truy cập=ngày 19 Marchtháng 3 năm 2015}}</ref> Đĩa đơn "Destiny" đứng ở vị trí thứ 30 trong bảng xếp hạng [[UK Singles Chart]].<ref name="SiaUK">{{Chú thích web|url=http://officialcharts.com|tiêu đề=Sia: Artist|nhà xuất bản=[[Official Charts Company]]| ngày truy cập=ngày 16 Februarytháng 2 năm 2015}}</ref> Vào năm 2004, cô tiếp tục đóng góp cho Zero 7 qua các đĩa đơn "Somersault" và "Speed Dial No. 2" (từ album ''When It Falls'').<ref name=allmusicwhen>{{Chú thích web|họ 1=Bush|tên 1=John|tiêu đề=When It Falls – Zero 7|url=http://www.allmusic.com/album/when-it-falls-mw0000328826|nhà xuất bản=AllMusic|ngày truy cập=ngày 19 Marchtháng 3 năm 2015}}</ref> Vào năm 2006, Sia tiếp tục hợp tác với Zero 7 qua album thứ ba của ban nhạc, ''The Garden,'' và vì vậy nên cô được mọi người đánh giá là ca sĩ hát chính "không chính thức" của Zero 7.<ref name=allmusicgarden>{{Chú thích web| họ 1=Brown|tên 1=Marisa|tiêu đề=The Garden – Zero 7|url=http://www.allmusic.com/album/the-garden-mw0000542394|nhà xuất bản=AllMusic|ngày truy cập=ngày 19 Marchtháng 3 năm 2015}}</ref><ref name="BB09">{{cite journal |last=Mason |first=Kerri |url=https://books.google.com/books?id=EX4yD1pJCxUC&pg=PA56 |title=Albums: Zero 7 – Yeah Ghost |page=56 |journal=Billboard |date=ngày 3 Octobertháng 10 năm 2009 |volume=121 |number=39}}</ref>
 
Vào năm 2000, Sia ký hợp đồng thu âm với phòng thu âm Dance Pool của hãng [[Sony Music]] và ra mắt đĩa đơn đầu tiên của cô, "Taken for Granted", giành lấy vị trí thứ 10 trên UK Singles Chart.<ref name=AllMusic/> Vào năm 2001, cô ra mắt album đơn ca thứ hai của mình, ''Healing Is Difficult'', kết hợp giữa hai thể loại nhạc retro [[jazz]] và [[soul]], và nội dung lời ca của nó cho biết chuyện Sia đang phải đối mặt với cái chết của mối tình đầu của mình.<ref name="SMHSia"/><ref>{{Chú thích web|url=http://www.allmusic.com/album/healing-is-difficult-mw0000464188|tiêu đề=Healing Is Difficult – Sia|nhà xuất bản=AllMusic|tên 1=Jon|họ 1=O'Brien|ngày truy cập=ngày 16 Februarytháng 2 năm 2015}}</ref> Không hài lòng với việc quảng bá album, Sia sa thải quản lý của cô, rời khỏi Sony Music và ký hợp đồng với Go! Beat, một chi nhánh nhỏ của [[Universal Music Group]] (UMG).<ref name="Verrico">{{Citechú newsthích báo | url = http://www.thesundaytimes.co.uk/sto/culture/music/article77556.ece | title = A Woman on the Verge | last1 = Verrico | first1 = Lisa | newspaper = [[The Sunday Times]]| date = ngày 30 Decembertháng 12 năm 2007 | accessdate =ngày 7 Julytháng 7 năm 2011}} {{subscription required}}</ref> Tại Lễ trao giải APRA vào năm 2002, Sia giành được giải Người viết bài hát Đột phá cùng với bộ đôi ngôi sao nhạc pop ở [[Brisbane]] Aneiki, Jennifer Waite và Grant Wallis.<ref name="APRAWin2002">{{Chú thích web | url = http://www.apra-amcos.com.au/APRAAwards/MusicAwards/History/2002Winners.aspx |url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20110308004321/http://www.apra-amcos.com.au/APRAAwards/MusicAwards/History/2002Winners.aspx| tiêu đề = 2002 Winners – APRA Music Awards | nhà xuất bản = [[Australasian Performing Right Association]] | ngày lưu trữ=ngày 8 Marchtháng 3 năm 2011 }}</ref>
[[Tập tin:Sia Furler and Zero 7 in concert.jpg|nhỏ|phải|240px|Sia và Zero 7 biểu diễn vào năm 2006]]
Vào năm 2004, Sia phát hành album phòng thu thứ ba của cô, ''Colour the Small One''.<ref name="Ott">{{Chú thích web|url=http://pitchfork.com/reviews/albums/7735-colour-the-small-one/ |tiêu đề=Sia – Colour the Small One |họ 1=Ott |tên 1=Chris |nhà xuất bản=[[Pitchfork (website)|''Pitchfork'']] |ngày tháng=ngày 2 Marchtháng 3 năm 2004 |ngày truy cập=ngày 9 Julytháng 7 năm 2011 |url hỏng=yes |url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20150816072120/http://pitchfork.com/reviews/albums/7735-colour-the-small-one/ |ngày lưu trữ=ngày 16 Augusttháng 8 năm 2015 |df= }}</ref> Cô sử dụng một hỗn hợp gồm các thể loại nhạc [[acoustic]] và [[nhạc điện tử|điện tử]] làm chất liệu nhạc cho album này.<ref name="Ott"/><ref>{{Chú thích web|url=https://www.theguardian.com/music/2004/jan/02/popandrock.shopping|tiêu đề=CD: Sia, Colour the Small One|work=[[The Guardian]]|tên 1=Caroline|họ 1=Sullivan|ngày tháng=ngày 2 Januarytháng 1 năm 2004|ngày truy cập=ngày 16 Februarytháng 2 năm 2015}}</ref> Album bao gồm bốn đĩa đơn: "Don't Bring Me Down", "Breathe Me", "Where I Belong" và "Numb". "Breathe Me" giành lấy vị trí thứ 71 tại Anh Quốc,<ref name="SiaUK"/> thứ 19 tại Đan Mạch và thứ 81 tại Pháp.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.danishcharts.com/showitem.asp?interpret=Sia&titel=Breathe+Me&cat=s|tiêu đề=Breathe Me – Sia|nhà xuất bản=[[Tracklisten]]|ngôn ngữ=Danish|ngày truy cập=ngày 16 Februarytháng 2 năm 2015}}</ref> "Where I Belong" từng dự kiến sẽ được đưa vào làm [[nhạc phim]] của bộ phim [[Người Nhện 2 (phim 2004)|''Người Nhện 2'']]; tuy nhiên, do một mâu thuẫn xung đột của hãng thu âm, nó đã bị thu hồi trong những phút cuối cùng.<ref>{{Chú thích web|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20100629161406/http://www.siamusic.net/discography/singles/where-i-belong |url=http://www.siamusic.net/discography/singles/where-i-belong |tiêu đề=Where I Belong {{!}} Single |nhà xuất bản=Sia Music |ngày lưu trữ=ngày 29 Junetháng 6 năm 2010 |url hỏng=yes |df=dmy }}</ref>
 
Không mãn nguyện với chuyện ''Colour the Small One'' đang được bày bán trên thị trường với chất lượng kém và vẫn đang vật lộn để kết nối được với một đối tượng chủ đạo, Sia di chuyển sang Thành phố New York vào năm 2005.<ref name="SMHSia"/> Trong khoảng thời gian đó, "Breathe Me" được chọn sẽ xuất hiện trong cảnh cuối cùng của series phim truyền hình của [[HBO]] ''Six Feet Under'', góp phần làm cho danh tiếng của Sia tăng cao thêm tại Mỹ. Do đó, quản lý của Sia, David Enthoven, đã sắp xếp một chuyến lưu diễn vòng quanh đất nước để duy trì sự nghiệp đang lớn dần của cô.<ref>{{Chú thích web| url=https://www.nytimes.com/2014/04/20/magazine/sia-furler-the-socially-phobic-pop-star.html?_r=1|tiêu đề=Sia Furler, the Socially Phobic Pop Star|work=[[The New York Times]]|ngày tháng=ngày 20 Apriltháng 4 năm 2014|tên 1=Steve|họ 1=Knopper|ngày truy cập=ngày 16 Februarytháng 2 năm 2015}}</ref>
 
=== 2007–2010: ''Some People Have Real Problems'' và ''We Are Born'' ===
[[Tập tin:Sia performing photograph by Kris Krug.jpg|nhỏ|phải|Sia biểu diễn tại Liên hoan Âm nhạc South by Southwest, 2008]]
Vào năm 2007, Sia phát hành một album trực tiếp, có tựa đề ''Lady Croissant'', bao gồm tám bài hát biểu diễn trực tiếp từ buổi biểu diễn vào tháng 4 năm 2006 tại Bowery Ballroom, New York và một bản thu âm phòng thu mới—"Pictures".<ref name="Brown">{{Chú thích web|url=http://www.allmusic.com/album/lady-croissant-mw0000557699|tiêu đề=Sia – Lady Croissant|nhà xuất bản=AllMusic| tên 1=Marisa|họ 1=Brown|ngày truy cập=ngày 16 Februarytháng 2 năm 2015}}</ref> Một năm sau, cô rời khỏi Zero 7, được thay thế bởi Eska Mtungwazi làm ca sĩ nữ hát chính cho ban nhạc.<ref name="BB09"/> Sia phát hành album phòng thu thứ tư của cô, ''Some People Have Real Problems'' vào ngày 8 tháng 1 năm 2008. Album giành được vị trí thứ 41 tại Úc và được [[Danh sách chứng nhận doanh số đĩa thu âm|chứng nhận Vàng]] bởi [[Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc]].<ref name="Australia">Chứng nhận và vị trí xếp hạng tại Úc:
*{{Chú thích web|url=http://www.australian-charts.com/showinterpret.asp?interpret=Sia |tiêu đề=Discography Sia |nhà xuất bản=ARIA Charts |ngày truy cập=ngày 16 Februarytháng 2 năm 2015 |url hỏng=yes |url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20150227104853/http://www.australian-charts.com/showinterpret.asp?interpret=Sia |ngày lưu trữ=ngày 27 Februarytháng 2 năm 2015 |df=dmy }}
*{{Chú thích web|url=http://www.aria.com.au/pages/httpwww.aria.com.aupageshttpwww.aria.com.aupageshttpwww.aria.com.aualbumaccreds2011.htm |tiêu đề=Accreditations – 2011 Albums |nhà xuất bản=Australian Recording Industry Association |ngày truy cập=ngày 16 Februarytháng 2 năm 2015 |url hỏng=yes |url lưu trữ=https://www.webcitation.org/64wvlBwg5?url=http://www.aria.com.au/pages/httpwww.aria.com.aupageshttpwww.aria.com.aupageshttpwww.aria.com.auALBUMaccreds2011.htm |ngày lưu trữ=ngày 25 Januarytháng 1 năm 2012 |df=dmy }}</ref> Nó được xếp hạng thứ 26 trên [[Billboard 200|''Billboard'' 200]] của Mỹ, trở thành album đầu tiên của Sia được nằm trong bảng xếp hạng tại Mỹ.<ref name="BB200">{{Chú thích web|url=http://www.billboard.com/artist/279248/sia/chart?f=305|tiêu đề=Sia – Chart history: Billboard 200|work=[[Billboard (magazine)|Billboard]]|ngày truy cập=ngày 16 Februarytháng 2 năm 2015}}</ref>
 
''Some People Have Real Problems'' bao gồm bốn đĩa đơn. Đĩa đơn đầu tiên, "Day Too Soon", được phát hành vào tháng 11 năm 2007 và đứng ở vị trí thứ 24 trong bảng xếp hạng [[Dance Club Songs|Hot Dance Club Songs]].<ref>{{Chú thích web|url lưu trữ=https://www.webcitation.org/6VTkYGvbx?url=https://itunes.apple.com/us/album/day-too-soon-ep/id264089354 |url=https://itunes.apple.com/us/album/day-too-soon-ep/id264089354 |tiêu đề=iTunes – Music – Day Too Soon |nhà xuất bản=[[iTunes Store]] |vị trí=United States |ngày lưu trữ=ngày 10 Januarytháng 1 năm 2015 |url hỏng=yes |df=dmy }}</ref><ref name="DanceClubSongs"/> Đĩa đơn thứ hai, "The Girl You Lost to Cocaine", được ra mắt vào tháng 3 năm 2008.<ref>{{Chú thích web|url=https://nl-be.7digital.com/artist/sia/release/the-girl-you-lost-to-cocaine-3/|tiêu đề=The Girl You Lost To Cocaine|nhà xuất bản=[[7digital]]|vị trí=Belgium|ngôn ngữ=Dutch|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20150110073119/https://nl-be.7digital.com/artist/sia/release/the-girl-you-lost-to-cocaine-3/|ngày lưu trữ=ngày 10 Januarytháng 1 năm 2015}}</ref> Đĩa đơn đã giành lấy vị trí thứ 11 tại Hà Lan và thứ 12 tại Tây Ban Nha;<ref>{{Chú thích web|url=http://dutchcharts.nl/showitem.asp?interpret=Sia&titel=The+Girl+You+Lost+To+Cocaine&cat=s|tiêu đề=Sia – The Girl You Lost to Cocaine|nhà xuất bản=[[Single Top 100]]|ngày truy cập=ngày 16 Februarytháng 2 năm 2015}}</ref> và vươn lên vị trí thứ 8 trong Hot Dance Club Songs.<ref name="DanceClubSongs">{{Chú thích web|url=http://www.billboard.com/artist/279248/sia/chart?f=359|tiêu đề=Sia – Chart history: Dance Club Songs|work=Billboard|ngày truy cập=ngày 16 Februarytháng 2 năm 2015}}</ref> Đĩa đơn thứ ba của album, "Soon We'll Be Found", được phát hành vào tháng 10 năm 2008.<ref>{{Chú thích web|url=https://itunes.apple.com/gb/album/soon-well-be-found-single/id705846139 |tiêu đề=iTunes – Music – Soon We'll Be Found |nhà xuất bản=iTunes Store |vị trí=United Kingdom |ngày lưu trữ=ngày 16 Februarytháng 2 năm 2015 |url lưu trữ=https://www.webcitation.org/6WO4OTMPJ?url=https://itunes.apple.com/gb/album/soon-well-be-found-single/id705846139 |url hỏng=yes |df=dmy }}</ref> Bản remix Bart Hendrix Deep Dope của "Buttons" được phát hành dưới dạng đĩa đơn trong ''Some People Have Real Problems'' vào tháng 2 năm 2009.<ref>{{Chú thích web|url lưu trữ=https://www.webcitation.org/6VT63er7D?url=https://itunes.apple.com/nz/album/buttons-single/id374983244 |url=https://itunes.apple.com/nz/album/buttons-single/id374983244 |tiêu đề=iTunes – Music – Buttons |nhà xuất bản=iTunes Store |vị trí=New Zealand |ngày lưu trữ=ngày 10 Januarytháng 1 năm 2015 |url hỏng=yes |df=dmy }}</ref>
 
Vào tháng 5 năm 2009, Sia phát hành video ''TV Is My Parent'' dưới dạng [[DVD]], bao gồm một buổi hòa nhạc trực tiếp tại Hilo Ballroon ở New York, bốn video âm nhạc và cảnh hậu trường.<ref name="MusicNews">{{Chú thích web|url=http://www.musicnewsnet.com/2009/03/tv-is-my-parent-new-dvd-from-sia.html|archive-url=https://web.archive.org/web/20111006160804/http://www.musicnewsnet.com/2009/03/tv-is-my-parent-new-dvd-from-sia.html|dead-url=yes|archive-date=ngày 6 Octobertháng 10 năm 2011|tiêu đề=TV is My Parent, New DVD from Sia|nhà xuất bản=Music News Net|ngày tháng=ngày 9 Marchtháng 3 năm 2009}}</ref> Tại Lễ trao giải Âm nhạc ARIA năm 2009, Sia đoạt giải DVD Âm nhạc Xuất sắc nhất với ''TV Is My Parent''.<ref name="ARIAAward2009">{{Chú thích web|url=http://www.ariaawards.com.au/history-by-year.php?year=2009 |tiêu đề=ARIA Awards History|nhà xuất bản=ARIA Awards|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20100128034837/http://www.ariaawards.com.au/history-by-year.php|ngày lưu trữ=ngày 28 Januarytháng 1 năm 2010}}</ref> Cô đồng thời cũng nhận được một đề cử cho giải Album Nghệ sĩ Đột phá Xuất sắc nhất với ''Some People Have Real Problems''.<ref>{{Chú thích web|họ 1=Parker |tên 1=Tappan |url=http://dailycollegian.com/2010/05/03/sia-brings-song-to-pearl-street/ |tiêu đề=Sia brings song to Pearl Street |work=[[The Massachusetts Daily Collegian]] |ngày tháng=ngày 3 Maytháng 5 năm 2010 |url lưu trữ=https://www.webcitation.org/6WO5Lqzta?url=http://dailycollegian.com/2010/05/03/sia-brings-song-to-pearl-street/ |ngày lưu trữ=ngày 16 Februarytháng 2 năm 2015 |url hỏng=yes |df=dmy }}</ref>
 
Vào năm 2009, ca sĩ người Mỹ [[Christina Aguilera]] đã trao đổi với Sia về việc viết một số bản nhạc [[ballad]] cho album phòng thu thứ sáu sắp tới của Aguilera.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.heraldsun.com.au/news/now-you-sia/story-e6frf7jo-1111119107653|tiêu đề=Sia Furler is enjoying attentions of Christina Aguilera|work=[[Herald Sun]]|tên 1=Cameron|họ 1=Adams|ngày tháng=ngày 12 Marchtháng 3 năm 2009|ngày truy cập=ngày 17 Februarytháng 2 năm 2015}}</ref> Sản phẩm cuối cùng, [[Bionic (album)|''Bionic'']], bao gồm ba bài hát được đồng sáng tác bởi Sia.<ref>{{cite AV media notes|title=[[Bionic (album của Christina Aguilera)|Bionic]]|others=[[Christina Aguilera]]|year=2010|type=liner notes|publisher=[[RCA Records]], a division of [[Sony Music Entertainment]]}}</ref> Sau đó, vào năm 2010, Sia cũng là người đồng sáng tác ra "Bound to You", là nhạc phim của bộ phim Mỹ [[Burlesque (phim)|''Burlesque'']], với sự tham gia của Aguilera và ca sĩ người Mỹ [[Cher]]. Bài hát được đề cử cho giải [[Giải Quả cầu vàng cho ca khúc trong phim hay nhất|Ca khúc trong phim Hay nhất]] tại [[Giải Quả cầu vàng]] lần thứ 68. Vào tháng 5 năm 2011, Sia xuất hiện trong [[The Voice (Hoa Kỳ mùa 1)|mùa giải đầu tiên]] của chương trình [[The Voice (chương trình truyền hình Hoa Kỳ)|The Voice]] Mỹ, với vai trò là một cố vấn cho Aguilera, người đã từng là một huấn luyện viên và là một vị giám khảo.
 
[[Tập tin:Sia concert 2010 - We Meaning You Tour.jpg|trái|nhỏ|upright|Sia biểu diễn trong We Meaning You Tour, năm 2010]]
Dòng 79:
 
=== 2010–2013: Sự nghiệp viết nhạc và sự công nhận chủ đạo ===
[[FileTập tin:Sia (5423995397) (Cropped).jpg.png|thumb|right|upright|Sia biểu diễn năm 2011.]]
Tiếp nối thành công của ''We Are Born'', Sia cảm thấy không được thoải mái với danh tiếng đang lớn dần của mình. Cô nói với tờ ''[[The New York Times]]'': "Tôi chỉ muốn có một cuộc sống riêng tư. Một lần, khi một người bạn của tôi bảo tôi rằng họ bị ung thư, một người khác liền đứng dậy và hỏi tôi, ngay giữa cuộc hội thoại, rằng họ có thể chụp một tấm ảnh với tôi không. Bạn hiểu tôi chứ? Thế là đủ rồi, phải không?" Cô từ chối việc quảng bá cho các chuyến lưu diễn của mình, bắt đầu đeo một cái mặt nạ trên sân khấu và dần dần trở nên phụ thuộc vào thuốc phiện và rượu chè; cô coi đó là một cách để tự sát. Sia sa thải Enthoven và thuê Jonathan Daniel, người đã gợi ý cho cô về việc sáng tác bài hát cho các nghệ sĩ khác.
 
Dòng 98:
 
=== 2017–nay: ''Everyday Is Christmas'' ===
Vào năm 2017, Sia rời khỏi [[RCA Records|RCA]], chuyển sang hợp tác cùng [[Atlantic Records]]. Cô phát hành album mới, ''Everyday Is Christmas'', với Atlantic và Monkey Puzzle vào ngày 17 tháng 11 năm 2017. Album bao gồm những bài hát được đồng viết ra và đồng sản xuất bởi Greg Kurstin. Để quảng bá album này, Sia xuất hiện trên chương trình [[The Ellen DeGeneres Show|''Ellen'']] (cùng với Maddie Ziegler)<ref>Aniftos, Rania. [https://www.billboard.com/articles/columns/pop/8070501/sia-maddie-ziegler-reunite-perform-snowman-ellen "Sia & Maddie Ziegler Reunite to Perform 'Snowman' on ''Ellen'': Watch"], ''Billboard'', Decemberngày 13, tháng 12 năm 2017</ref> và trên chương trình [[The Voice (chương trình truyền hình Hoa Kỳ)|''The Voice'']] để trình bày bài hát "Snowman".{{cn|date=tháng 1 năm 2018}}
 
Đĩa đơn đầu tiên từ album là "[[Santa's Coming for Us]]", được phát hành vào ngày 30 tháng 10 năm 2017. [[Santa's Coming for Us#Video âm nhạc|Video âm nhạc]] của bài hát được phát hành vào ngày 22 tháng 11 năm 2017 trên kênh âm nhạc trên [[YouTube]] chính thức của Sia.
Dòng 143:
 
== Tham khảo ==
{{reflisttham khảo|3}}
 
== Liên kết ngoài ==
Dòng 173:
[[Thể loại:Người bị rối loạn lưỡng cực]]
[[Thể loại:Nhạc sĩ theo chủ nghĩa nữ giới]]
[[Thể loại:Nữ ca sĩ thế kỷ 20]]
[[Thể loại:Nữ ca sĩ thế kỷ 21]]
[[Thể loại:Người Úc gốc Anh]]