Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lợn rừng”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n replaced: chiều cao → chiều cao (8) using AWB
n replaced: Chiều dài → Chiều dài, chiều dài → chiều dài (7) using AWB
Dòng 53:
'''Lợn rừng''' (''Sus scrofa'') hay còn được gọi là '''lợn lòi''' là một loài [[lợn]] sinh sống ở [[lục địa Á-Âu]], [[Bắc Phi]], và [[quần đảo Sunda Lớn]]. Con người đang làm cho phạm vi phân bố của chúng rộng thêm, làm chúng trở thành một trong những loài [[động vật có vú]] có phạm vi phân bố lớn nhất.<ref name="oliver1993">Oliver, W. L. R. et al. 1993. The Eurasian Wild Pig (''Sus scrofa''). In Oliver, W. L. R., ed., ''Pigs, Peccaries, and Hippos - 1993 Status Survey and Conservation Action Plan'', 112-121. IUCN/SSC Pigs and Peccaries Specialist Group, ISBN 2-8317-0141-4</ref> Chúng được [[IUCN]] xếp là [[loài ít quan tâm]].<ref name=iucn/> Có lẽ lợn rừng sinh sống ở vùng Nam-Đông Á vào [[Pleistocen sớm]],<ref name=chen2007>Chen, K. et al. "Genetic Resources, Genome Mapping and Evolutionary Genomics of the Pig (''Sus scrofa'')". ''Int J Biol Sci'' 2007; 3(3):153-165. doi:10.7150/ijbs.3.153. Available from http://www.ijbs.com/v03p0153.htm</ref> và hiện nay có mặt hầu như khắp [[Cựu Thế giới]].<ref name=kurten1968>Kurtén, Björn (1968). Pleistocene mammals of Europe. Weidenfeld and Nicolson. các trang 153-155</ref>
 
Tính tới năm 2005, có 16 [[phân loài]] được công nhận, được chia thành ba nhóm dựa trên [[chiều cao]] hộp sọ và [[chiều dài]] [[xương tuyến lệ]].<ref name=msw3/> Loài này sống theo nhóm mẫu hệ gồm các con đực non, con cái và con của chúng. Con đực trưởng thành thường sống đơn độc trừ khi vào mùa sinh sản.<ref name="marsan75">{{Harvnb|Marsan|Mattioli|2013|pp=75–76}}</ref> [[Sói xám]] là thiên địch chính của lợn rừng lại hầu hết phạm vi sinh sống của chúng.<ref name=baskin2003>Baskin, L. & Danell, K. (2003), ''Ecology of Ungulates: A Handbook of Species in Eastern Europe and Northern and Central Asia'', Springer Science & Business Media, các trang 15-38, ISBN 3540438041</ref> Chúng là tổ tiên của hầu hết các giống [[lợn nhà]] và là một loài [[thú săn]] trong nhiều nghìn năm.
 
==Thuật ngữ==
Dòng 156:
 
==Đặc điểm==
Lợn rừng có một thể trạng to lớn, với đôi chân ngắn và tương đối mỏng. Thân ngắn và to, trong khi chân sau tương đối kém phát triển. Khu vực phía sau những cái bả vai mọc lên một bướu, và cổ ngắn và dày, đến mức gần như bất động. Đầu của con vật rất lớn, chiếm đến một phần ba toàn bộ [[chiều dài]] của cơ thể. Cấu trúc của đầu là rất thích hợp cho việc đào bới. Đầu hoạt động như một máy cày, trong khi các cơ cổ rất khỏe cho phép con vật đào đất: nó có khả năng đào 8–10&nbsp;cm (3.1–3.9&nbsp;in) vào đất bị đóng băng và có thể lật lên những tảng đá nặng 40– 50&nbsp;kg (88–110&nbsp;lb). Đôi mắt nhỏ và sâu, và đôi tai dài và rộng. Các móng guốc ở giữa lớn hơn và kéo dài hơn những cái bên, và có khả năng di chuyển nhanh. Lợn rừng có thể chạy ở tốc độ tối đa 40&nbsp;km/h và nhảy ở độ cao 140–150&nbsp;cm (55–59&nbsp;in). [[Dị hình giới tính]] là rất rõ rệt trong loài, với con đực thường lớn hơn 5-10% và nặng hơn 20-30% so với con cái. Lợn đực cũng có một bộ bờm chạy xuống phía sau cơ thể, đặc biệt rõ ràng trong mùa thu và mùa đông. Trong giai đoạn sinh sản, con đực phát triển một lớp mô dưới da, dày 2–3&nbsp;cm (0,79–1,18 in), kéo dài từ các bả vai đến mông, do đó bảo vệ các cơ quan quan trọng trong khi chiến đấu. Con đực có một bao kích thước gần bằng trứng gần lỗ mở của dương vật, thu thập nước tiểu và phát ra một mùi hương. Chức năng này của chúng chưa được hiểu đầy đủ.
 
Loài này đã phát triển tốt [[răng nanh]], nhô ra từ miệng của con đực trưởng thành.Răng nanh cũng nổi bật hơn nhiều ở con đực và phát triển trong suốt cuộc đời. Các răng nanh trên tương đối ngắn và phát triển ngang vào lúc đầu, mặc dù dần dần cong lên trên. Răng nanh thấp hơn nhiều và dài hơn, với các bộ phận tiếp xúc dài 10–12&nbsp;cm (3,9–4,7 in), đây là thứ vũ khí rất lợi hại của chúng để chống lại kẻ thù và cũng là 1 điểm khác biệt lớn so với lợn nhà và với cặp răng nanh này, một con lợn rừng to hoàn toàn có khả năng giết chết một con [[hổ]] nếu như con hổ sơ ý. Tuy nhiên trong một cuộc chiến tay đôi với hổ, loài thiên địch chuyên săn lợn rừng thì hổ thường tạo tư thế đứng chếch ngang rồi quay sang vít đầu lợn xuống đất để vô hiệu hóa chiếc mồm với cặp răng này, tạo thế thượng phong.
 
[[File:PigSkelLyd2.png|thumb|Bộ xương lợn rừng]]
Kích thước và trọng lượng của lợn rừng trưởng thành chủ yếu được xác định bởi các yếu tố môi trường; lợn đực sống ở các vùng khô cằn, năng suất thấp có xu hướng đạt kích thước nhỏ hơn so với các đối tượng sống ở những vùng có nhiều thức ăn và nước. Ở hầu hết châu Âu, con đực có trọng lượng trung bình 75–100&nbsp;kg (165–220&nbsp;lb), [[chiều cao]] vai 75–80&nbsp;cm (30–31&nbsp;in) và [[chiều dài]] cơ thể 150&nbsp;cm (59&nbsp;in), trong khi con cái trọng lượng trung bình 60–80&nbsp;kg (130–180&nbsp;lb), [[chiều cao]] vai 70&nbsp;cm (28&nbsp;in) và [[chiều dài]] cơ thể 140&nbsp;cm (55&nbsp;in). Ở các vùng Địa Trung Hải của châu Âu, con đực có thể đạt trọng lượng trung bình thấp tới 50&nbsp;kg (110&nbsp;lb) và cái 45&nbsp;kg (99&nbsp;lb), với [[chiều cao]] vai 63–65&nbsp;cm (25–26&nbsp;in). Ở các khu vực Đông Âu, con đực có trọng lượng trung bình 110–130&nbsp;kg (240–290&nbsp;lb), [[chiều cao]] vai 95&nbsp;cm (37&nbsp;in) và [[chiều dài]] cơ thể 160&nbsp;cm (63&nbsp;in), trong khi con cái nặng 95&nbsp;kg (209&nbsp;lb), đạt tới 85–90&nbsp;cm (33–35&nbsp;in) ở [[chiều cao]] vai và 145&nbsp;cm (57&nbsp;in) trong [[chiều dài]] cơ thể. Ở Tây và Trung Âu, nam giới lớn nhất nặng 200&nbsp;kg (440&nbsp;lb) và nữ 120&nbsp;kg (260&nbsp;lb). Ở Đông Bắc Á, những con đực lớn có thể đạt kích cỡ [[gấu nâu]], nặng 270&nbsp;kg (600&nbsp;lb) và đo [[chiều cao]] vai 110–118&nbsp;cm (43–46&nbsp;in). Một số con đực trưởng thành ở Ussuriland và [[Mãn Châu]] đã được ghi nhận cân nặng 300–350&nbsp;kg (660–770&nbsp;lb) và đo [[chiều cao]] vai 125&nbsp;cm (49&nbsp;in). Con lợi rừng lớn nhất được ghi nhận có tên là [[Hogzilla II]] với trọng lượng cơ thể đạt 450&nbsp;kg, [[chiều dài]] lên đến khoảng 2,8m, bắp đùi của nó to tương đương với lốp xe tải. Lợn rừng có kích thước này thường không bị loài dã thú nào săn bắt. Những con lợn khổng lồ như vậy là rất hiếm trong thời hiện đại, do những cuộc săn bắn trong quá khứ ngăn chặn động vật từ việc đạt được sự tăng trưởng đầy đủ của chúng.
 
Bộ lông mùa đông bao gồm lông dài, thô được phủ bằng lông lông tơ màu nâu ngắn. [[Chiều dài]] của các lông thay đổi dọc theo cơ thể, với ngắn nhất là xung quanh mặt và chân tay và dài nhất chạy dọc theo lưng. Những lông trở lại hình thành bờm nói trên nổi bật ở con đực và đứng dựng lên khi nó bị kích động. Màu sắc rất biến đổi; các mẫu vật xung quanh Hồ Balkhash có màu rất nhẹ, và thậm chí có thể có màu trắng, trong khi một số lợn đực từ Belarus và Ussuriland có thể có màu đen. Một số phân loài có một miếng vá màu sáng chạy ngược từ các góc của miệng. Màu lông cũng thay đổi theo độ tuổi, với heo con có lông màu nâu nhạt hoặc nâu đỏ với những dải màu nhạt trải dài từ hai cánh và lưng.
 
==Tập tính xã hội==