Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đại Vận Hà”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi
n replaced: chiều dài → chiều dài (4) using AWB
Dòng 57:
Đại Vận Hà đã được kéo dài thêm vào thời kỳ [[nhà Tùy]] ([[581]]-[[618]]). Năm [[604]], [[Tùy Dạng đế]] của nhà Tùy đã rời bỏ [[Trường An]] (ngày nay là [[Tây An]]) để chuyển kinh đô tới [[Lạc Dương]]. Năm [[605]], vị hoàng đế này giao công việc mở rộng, kéo dài Đại Vận Hà cho Vũ Văn Khải, để nối liền Trác Quận (nay là [[Bắc Kinh]]) với [[Hàng Châu]].
 
Công việc này kéo dài trong 6 năm để liên kết 5 hệ thống sông vào Đại Vận Hà. Khi hoàn thành, nó nối liền các sông [[Hải Hà]], [[Hoàng Hà]], [[Hoài Hà|sông Hoài]], [[Tiền Đường Giang|Tiền Đường]] và [[Dương Tử|Trường Giang]]. Phần phía nam, nằm giữa Dương Tử và Hàng Châu, được đặt tên là [[Giang Nam Hà]] (江南河). Phần trung tâm của Đại Vận Hà kéo dài từ [[Dương Châu]] tới Lạc Dương. Nó có thể được chia thành hai phần. Phần nằm giữa sông Dương Tử và sông Hoài được gọi là Sơn Dương Độc (山阳渎), phần lớn trong đó được xây dựng lại trên con kênh cũ. Phần thứ hai được gọi là Thông Tế Cừ (通济渠), nối liền Hoàng Hà với Hoài Hà. Phần phía bắc của Đại Vận Hà, được đặt tên là Vĩnh Tế Cừ (永济渠). Nó nối liền [[Bắc Kinh]] và [[Lạc Dương (Trung Quốc)|Lạc Dương]], và đã từng được sử dụng để vận chuyển quân lương cho cuộc [[Chiến tranh Tùy - Cao Câu Ly|chiến tranh Tùy-Cao Câu Ly]]<ref>[[Tùy thư]], Chương 3</ref>. Tổng [[chiều dài]] của hệ thống kênh đào này vào thời kỳ đó là khoảng 2.500&nbsp;km.
 
=== Các thời kỳ sau ===
Dòng 63:
Sau [[loạn An Sử]] (755-763) trong thời kỳ [[nhà Đường]] ([[618]]-[[907]]), nền [[kinh tế]] của miền bắc Trung Quốc đã bị tổn hại nghiêm trọng và không thể phục hồi lại do các cuộc chiến cũng như lũ lụt thường xuyên của sông [[Hoàng Hà]]. Đại Vận Hà là con đường chính để vận chuyển ngũ cốc từ khu vực đồng bằng châu thổ [[Trường Giang]] tới Hoa Bắc. Thành phố [[Khai Phong]] đã là trạm trung chuyển chính trên tuyến đường thủy này, và do đó nó đã lớn mạnh dần lên để sau đó trở thành kinh đô của [[nhà Tống]] ([[960]]-[[1279]]).
 
Trong thời kỳ [[nhà Nguyên]] ([[1271]]-[[1368]]), kinh đô của Trung Quốc chuyển về Đại Đô ([[Bắc Kinh]]) và do vậy nhu cầu cho Đại Vận Hà chảy về phía tây tới Khai Phong và Lạc Dương đã bị giảm mạnh. Kênh đào này sau đó đã được chuyển hướng theo đường tắt tại tỉnh [[Sơn Đông]] trong những năm từ [[1280]] tới [[1283]]. Nó đã ngắn đi tới 700&nbsp;km và tổng [[chiều dài]] khi đó còn khoảng 1.800&nbsp;km. Kể từ đó thì lộ trình của Đại Vận Hà đã không thay đổi nhiều.
 
Toàn bộ kênh đào này đã được hoàng đế [[Minh Thành Tổ]] cho cải tạo, xây dựng lại vào khoảng những năm [[1411]] tới [[1415]] (niên hiệu Vĩnh Lạc). Trong vòng khoảng 400 năm kế tiếp, nó đã được duy trì khá tốt như là huyết mạch chính để vận chuyển lương thực từ lưu vực sông Dương Tử tới Bắc Kinh.
Dòng 72:
 
== Lộ trình ==
Đại Vận Hà bắt đầu ở phía bắc tại Bắc Kinh và kết thúc ở phía nam gần Hàng Châu, [[Chiết Giang]] với [[chiều dài]] tổng cộng khoảng 1.794&nbsp;km (1.115 dặm). Nó chảy qua [[Bắc Kinh]], [[Thiên Tân]], [[Hà Bắc (Trung Quốc)|Hà Bắc]], [[Sơn Đông]], [[Giang Tô]] và [[Chiết Giang]], nối liền các sông Tiền Đường Giang, Dương Tử, Hoài Hà, Hoàng Hà và Hải Hà. Thông thường người ta chia nó thành 7 đoạn. Từ phía nam tới phía bắc chúng lần lượt được gọi là Giang Nam vận hà, Lý vận hà, Trung vận hà, Lỗ vận hà, Nam vận hà, Bắc vận hà và Thông Huệ hà.
=== Giang Nam vận hà ===
Đoạn phía nam của Đại Vận Hà, "Giang Nam vận hà", bắt đầu từ [[Hàng Châu]] thuộc tỉnh [[Chiết Giang]], tại đây nó nối liền vào sông Tiền Đường, tới [[Trấn Giang]] thuộc tỉnh [[Giang Tô]] để nối vào sông Dương Tử. Sau khi chảy qua Hàng Châu, kênh đào này vượt qua phần bờ phía đông của [[Thái Hồ]], bao quanh trên hành trình của nó là thành phố xinh đẹp [[Tô Châu]], và sau đó di chuyển nói chung theo hướng tây bắc qua các vùng đất màu mỡ của Giang Tô tới Trấn Giang trên bờ sông Dương Tử. Ở đoạn phía nam, độ dốc là khá thấp và nhiều nước (từ mức 2,1&nbsp;m (7&nbsp;ft) khi nước thấp và tới 3, 4&nbsp;m (11&nbsp;ft), đôi khi tới 4&nbsp;m (13&nbsp;ft) khi nước cao). Giữa Tô Châu và Trấn Giang thì chiều rộng của kênh đào thường là trên 30&nbsp;m (100&nbsp;ft), và ở nhiều nơi thì các bờ của nó được ốp đá. Các bờ này cũng được nối liền bằng nhiều cầu đá đẹp, hai bên bờ của nó có nhiều chùa chiền cao lớn. Độ dài của đoạn này khoảng 330&nbsp;km.
Dòng 100:
 
== Chiều dài và cao độ ==
Theo các tác phẩm của [[Père Gandar]], tổng [[chiều dài]] của Đại Vận Hà là 3.630 [[lý (đo lường)|lý]], hay khoảng 1.930&nbsp;km (1.200 dặm Anh). Tính toán một cách thô sơ, chỉ tính đến các khúc uốn cong chính của Đại Vận Hà cho con số khoảng 1.380&nbsp;km (850 dặm). Giá trị hay được trích dẫn trong các tài liệu của Trung Quốc là 1.794&nbsp;km.
 
Cao độ của đáy Đại Vận Hà tại một số điểm kiểm soát là:
Dòng 137:
{{Di sản thế giới tại Trung Quốc}}
{{Sông Trung Quốc}}
 
[[Thể loại:Địa lý Trung Quốc]]
[[Thể loại:Lịch sử kinh tế Trung Quốc]]