Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Edmund Roberts”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Sửa dịch máy.
n replaced: tam giác → tam giác (2) using AWB
Dòng 49:
== Cuộc đời ==
Roberts sinh ngày 29 tháng 6 năm [[1784]], mẹ là Sarah Griffiths, bà sống ở [[Portsmouth, New Hampshire]]; cha là Thuyền trưởng [[Hải quân Hoàng gia Anh]] Edmund Roberts,<ref>
{{Chú thích sách|url=http://www.dcnyhistory.org/bioindex.html|title=Biographical Review|date=ngày 27 tháng 1 năm 2011|publisher=Biographical Review Publishing Company (at Delaware County, NY Genealogy and History Site)|isbn=|location=Boston|chapter=Section 4|quote='''BELL BROTHERS.'''...Frances Lear Roberts, wife of Calvin H. Bell, was the youngest daughter of Edmund and Catharine Whipple (Langdon) Roberts, of Portsmouth, N.H.... The Roberts family are of English ancestry... Their grandfather was Captain Edmund Roberts, of the British navy; and their father was Edmund Roberts, Envoy Extraordinary and Minister Plenipotentiary of the United States to several Asiatic courts. He died at Macao, China, ngày 12 tháng 6 năm 1836, and was buried there.|accessdate =ngày 11 tháng 2 năm 2013|orig-year=First published in 1895|chapter-url=http://www.dcnyhistory.org/books/breview4.html}}</ref> mất ngày 15 tháng 11 năm 1787 và được an táng tại Nghĩa trang North Cemetery<ref>{{Chú thích web|url=http://gravematter.com/edmundroberts.htm|tựa đề=In Memory of Capt. Edmund Roberts who departed this life Nov. 15, 1787.|ngày=ngày 23 tháng 6 năm 2006|website=Gravestone images|nhà xuất bản=A Very Grave Matter|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20101202200515/http://gravematter.com/edmundroberts.htm|ngày lưu trữ=2010-12-02|ngày truy cập=ngày 5 tháng 5 năm 2012|quote=image © 2004 Gravematter.com}}</ref>. Cậu bé Edmund, ở tuổi 13, nhờ sự giúp đỡ của một nghị sĩ, đã được nhận vào giúp việc trong các cơ sở của Hải quân Hoa Kỳ. Nhưng cậu đã từ bỏ dịp đó để theo mong muốn của mẹ mình là ở nhà, khi bà còn sống. Roberts xuất ngoại và đã đến cư trú tại [[Luân Đôn]], [[Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland|Anh Quốc]] và sống ở đó cho đến năm 24 tuổi. Ông trở về Mỹ năm [[1808]], ông kết hôn với cô Catherine Whoop Langdon &#x2014; con gái của [[Thẩm phán]] Woodbury Langdon và là cháu gái của [[Thống đốc]] John Langdon,<ref>{{Chú thích web|url=http://www.accessgenealogy.com/scripts/data/database.cgi?file=Data&report=SingleArticle&ArticleID=0001473|tựa đề=Calvin Howard Bell Family|ngày=ngày 23 tháng 4 năm 2012|website=extract from Bell Family History|nhà xuất bản=Access Genealogy|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20111104133817/http://www.accessgenealogy.com/scripts/data/database.cgi?file=Data&report=SingleArticle&ArticleID=0001473|ngày lưu trữ=2011-11-04|ngày truy cập=ngày 19 tháng 4 năm 2012|quote=Judge Woodbury Langdon, of Portsmouth, N. H.; Delegate to the Continental Congress, 1779; President of N. H. Senate, 1784; Judge of the Superior Court of N. H., 1782-91....(a) Catherine Whipple Langdon: m. 1808, Edmund Roberts, of Portsmouth, N. H.}}</ref> cả hai đều tham gia vào hải trình thương mại [[tam giác]] New England giữa [[Portsmouth]], [[Vùng Caribe|Caribbean]] và Luân Đôn; là những công dân giàu có và quyền lực nhất của Portsmouth lúc đó. Trong số 11 người con của cặp vợ chồng, 8 người còn sống trước khi cha mẹ qua đời.<ref name="Griffis"/>
 
=== Cuộc sống vào thời kỳ "thống nhất các tiểu bang" ===
Dòng 55:
 
=== Thương gia Roberts ===
Roberts tham gia vào hải trình thương mại [[tam giác]] ở New England với tư cách là chủ tàu và tàu chở hàng cỡ lớn của riêng mình, nhưng ông không bao giờ làm thuyền trưởng.
 
Robert Hopkins Miller kể rằng Roberts đã đánh mất sự giàu có qua hàng loạt các biến cố, nhưng đã có cơ hội vào năm [[1823]] khi ông được bổ nhiệm làm [[Lãnh sự]] Hoa Kỳ tại Demerara (nay thuộc [[Guyana]]). Tuy nhiên, Miller đã nhầm là Demerara ở trên bờ biển phía đông châu Phi (thực tế nó nằm ở bờ đông Nam Mỹ) vào quên nhắc tới cuộc nổi loạn Demerara vào năm [[1823]].{{Sfn|Miller|1990|p=23}}
Dòng 63:
=== Đến cảng xa nhất của Ấn Độ giàu có ===
[[Tập tin:Seal of Salem, Massachusetts.png|nhỏ|Latin: ''Div viêm Indiae usque ad ultimum sinum'']]
Sự nghiệp ngoại giao của Roberts được thiết lập bằng sự thương mại của [[Salem]] với [[Trung Quốc]] và [[Đông Ấn]]. Được thúc đẩy bởi các thành viên của Hiệp hội Hàng hải Đông Ấn, được thành lập vào năm 1799 và bao gồm những người đã đi thuyền vượt qua [[Mũi Hảo Vọng]] hoặc [[Cape Horn|Mũi Sừng]] với tư cách là Thuyền trưởng bậc thầy hoặc siêu tàu (supercargo), đã đóng góp cho sự khởi đầu của quan hệ quốc tế Hoa Kỳ trong giai đoạn [[1788]] đến [[1845]]. Từ năm [[1826]] đến [[1832]], John Shillaber, lãnh sự Hoa Kỳ tại [[Jakarta|Batavia]], đã gửi một loạt thư cho thấy ông được trao quyền để đàm phán các hiệp ước thương mại.<ref name="Gedalecia">{{Chú thích tạp chí|last=Gedalecia|first=David|date=Winter 2002|title=Letters from the Middle Kingdom: The Origins of America's China Policy|url=https://www.archives.gov/publications/prologue/2002/winter/gedalecia-1.html|journal=Prologue Magazine|publisher=U.S. National Archives and Records Administration|volume=34|issue=4|pages=|doi=|id=|accessdate =ngày 15 tháng 7 năm 2012|quote=Shillaber was appointed consul on ngày 23 tháng 7 năm 1824, and served from ngày 14 tháng 2 năm 1825, until October 1832. He officially resigned in China on ngày 10 tháng 6 năm 1835. Office of the Historian, Department of State, Washington, D.C., electronic communication, Dec. 17, 2001.}}</ref> [[Martin Van Buren|Martin van Buren]] đã trả lời trong một lá thư ngày 13 tháng 12 năm [[1830]], gửi qua chữ ký của thư ký Daniel Brent, yêu cầu một kiến thức chính xác hơn về bản chất và đặc điểm của các chính phủ trong câu hỏi, và chi tiết hơn về những khó khăn gặp phải. {{Rp|p.30}} Các vấn đề nảy sinh sau khi Charles Moses Endicott, chủ nhân của tàu thương mại ''Friendship'' của Salem, tham gia buôn bán gia vị ở bờ biển [[Sumatra]], quay trở về Mỹ để báo cáo với tàu ''Thống đốc Endicott'', cũng của Salem, và tàu ''James Monroe'' ở New York, rằng ông đã chiếm lại được tàu của mình từ [[Cướp biển|những tên cướp biển]], kẻ đã cướp bóc nó, giết chết nhiều thuyền viên.{{Rp|p.121}} Trước sự phản đối kịch liệt của công chúng, [[Tổng thống Hoa Kỳ|Tổng thống]] [[Andrew Jackson|Jackson]] đã ra lệnh cho Đại tá hải quân John Downes của [[Tàu frigate|tàu khu trục]] {{USS|Potomac|1822|2}}, nơi đang chuẩn bị ra khơi cho bờ biển phía tây, chuyển sang thám hiểm [[Sumatra|Sumatran]]n, rời cảng [[Thành phố New York|New York]] vào ngày 19 tháng 8 năm 1831.
 
== Các sự kiện tiếp theo ==