Khác biệt giữa bản sửa đổi của “USS Saipan (CVL-48)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
cite DANFS
Dòng 1:
{{chú thích trong bài}}
{{Dablink|Về những tàu chiến Hoa Kỳ khác mang cùng tên, xin xem [[USS Saipan]].}}
Hàng 57 ⟶ 56:
|}
 
'''USS ''Saipan'' (CVL-48/AVT-6/CC-3)''' là một [[tàu sân bay]] hạng nhẹ của [[Hải quân Hoa Kỳ]], là chiếc dẫn đầu của [[Saipan (lớp tàu sân bay)|lớp ''Saipan'']] vốn còn bao gồm chiếc [[USS Wright (CVL-49)|''Wright'']]. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên được đặt [[USS Saipan|cái tên này]], theo tên [[trận Saipan]] trong Thế Chiến II.<ref name=DANFS/> Nó chỉ phục vụ như một tàu sân bay trong một thời gian ngắn trước khi được xếp lại lớp như một [[tàu chỉ huy]] vào năm [[1963]], rồi như chiếc [[tàu chuyển tiếp liên lạc chủ lực]] '''''Arlington'' (AGMR-2)''' vào năm [[1965]]. Nó ngừng hoạt động vào năm [[1970]] và bị bán để tháo dỡ vào năm [[1976]].
 
== Thiết kế và chế tạo ==
''Saipan'' được đặt lườn vào ngày [[10 tháng 7]] năm [[1944]] tại xưởng tàu của hãng [[New York Shipbuilding Corporation]] ở [[Camden, New Jersey]]. Nó được hạ thủy vào ngày [[8 tháng 7]] năm [[1945]], được đỡ đầu bởi Bà [[John W. McCormack]], và được đưa ra hoạt động vào ngày [[14 tháng 7]] năm [[1946]] dưới quyền chỉ huy của Thuyền trưởng, [[Đại tá Hải quân]] [[John G. Crommelin]].<ref name=DANFS>{{cite web | title= Saipan I (CVL-48) | url=https://www.history.navy.mil/research/histories/ship-histories/danfs/s/saipan-i.html | website=Naval History and Heritage Command | accessdate=17 February 2020}}</ref>
 
== Lịch sử hoạt động ==
=== Các hoạt động ban đầu ===
Được đưa ra hoạt động mười một tháng sau khi [[Chiến tranh thế giới thứ hai|Chiến tranh Thế giới thứ hai]] chấm dứt, ''Saipan'' tiến hành huấn luyện học viên phi công hải quân ngoài khơi [[Pensacola, Florida]] từ [[tháng chín|tháng 9]] năm [[1946]] đến [[tháng tư|tháng 4]] năm [[1947]]. Được điều về cảng nhà mới [[Norfolk, Virginia]], nó rời [[vịnh Mexico]] tham gia các đợt tập trận tại vùng [[biển Caribe|biển Caribbe]] rồi tiếp tục đi đến [[Xưởng hải quân Philadelphia]] để đại tu. Đến [[tháng mười một|tháng 11]], nó quay trở lại Pensacola, nhưng vào cuối [[tháng mười hai|tháng 12]], sau một lượt huấn luyện học viên mới, nó quay trở lại khu vực bờ Đông để phục vụ cùng [[Lực lượng Phát triển Chiến thuật]].<ref name=DANFS/>
 
Tuy nhiên, vào [[tháng hai|tháng 2]] năm [[1948]], các công việc về kỹ thuật hoạt động [[máy bay phản lực]], chiến thuật hỗ trợ tàu sân bay và đánh giá thiết bị điện tử của nó tạm ngưng trong một thời gian ngắn. Từ ngày [[7 tháng 2|7]] đến ngày [[24 tháng 2]], nó đưa các đại biểu của Hoa Kỳ đi dự lễ nhậm chức của Tổng thống [[Venezuela]]. Sau khi quay trở về, nó tiến hành các hoạt động tại chỗ ngoài khơi [[Virginia Capes]], và vào [[tháng tư|tháng 4]], sau một chuyến viếng thăm [[Portsmouth, New Hampshire]], nó quay trở lại các hoạt động của Lực lượng Phát triển Chiến thuật. Vào ngày [[18 tháng 4]], nó thay phiên cho [[tàu sân bay hộ tống]] [[USS Mindoro (CVE-120)|''Mindoro'' (CVE-120)]] trong vai trò [[soái hạm]] của Đội tàu sân bay 17.<ref name=DANFS/>
 
=== Liên đội Tiêm kích 17A ===
[[Tập tin:McDonnell FH-1 Phantom of VF-17A on USS Saipan (CVL-48) in May 1948.jpg|nhỏ|Máy bay [[McDonnell FH Phantom|FH-1 Phantom]] thuộc Liên đội VF-17A trên USS ''Saipan'', [[tháng năm|tháng 5]] năm [[1948]].]]
Vào ngày [[19 tháng 144]] năm [[1948]], ''Saipan'' khởi hành từ Norfolk để đi đến [[Quonset Point, Rhode Island]], nơi mà vào ngày [[3 tháng 5]] nó nhận lên tàu Liên đội Tiêm kích 17A. Ba ngày sau, mọi phi công thuộc liên đội đạt chuẩn nhận tàu sân bay đối với kiểu [[máy bay tiêm kích]] [[máy bay phản lực|phản lực]] [[McDonnell FH Phantom|FH-1 Phantom]]. Liên đội VF-17A trở thành liên đội máy bay phản lực đầu tiên hoạt động trên tàu sân bay.<ref name=DANFS/>
 
Quay trở lại Norfolk vào cuối tháng, ''Saipan'' được cất khỏi trách nhiệm soái hạm đội tàu sân bay, và vào [[tháng sáu|tháng 6]] nó quay trở lại vùng biển ngoài khơi New England, rồi đến [[tháng bảy|tháng 7]] được đại tu tại Norfolk. Đến [[tháng mười hai|tháng 12]], nó quay lại các hoạt động tại chỗ. Vào ngày [[24 tháng 12]], nó nhận lên tàu hai chiếc [[máy bay trực thăng]] kiểu mới nhất [[XHJS-1]] và ba máy bay trực thăng [[HRP-1]] của lực lượng [[Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ|Thủy quân Lục chiến]] rồi đi lên phía Bắc hướng đến [[Greenland]] để trợ giúp vào việc giải cứu mười một thành viên của đội bay bị rơi trên đảo băng này. Khởi hành từ Norfolk vào ngày [[Lễ Giáng Sinh|Giáng sinh]], chiếc tàu sân bay đi đến ngoài khơi vào ngày [[28 tháng 12]], sẵn sàng tung máy bay trực thăng ra một khi thời tiết cho phép. Tuy nhiên, vào ngày [[29 tháng 12]], một máy bay [[Douglas C-47 Skytrain|C-47]] trang bị càng đáp bằng ván trượt và bộ rocket hỗ trợ cất cánh đã hạ cánh trên băng giải cứu được những người gặp nạn.<ref name=DANFS/>
 
''Saipan'' sau đó quay trở về Norfolk, về đến nơi vào ngày [[31 tháng 12]]. Nó lại lên đường vào ngày [[28 tháng 1]], [[1949]] để hướng xuống phía Nam, và thực hành huấn luyện tại khu vực phụ cận [[vịnh Guantánamo, Cuba]] cho đến [[tháng 3]] và quay trở về [[Hampton Roads]] vào ngày [[10 tháng 3]]. Từ ngày [[11 tháng 3|11]] đến ngày [[19 tháng 3]], nó hoạt động cùng Lực lượng Phát triển Chiến thuật, tiếp nối bằng một chuyến đi huấn luyện hải quân dự bị đến [[Canada]]. Đến cuối [[tháng 5]], chiếc tàu sân bay lại hoạt động cùng Lực lượng Phát triển Chiến thuật, rồi một chuyến đi huấn luyện hải quân dự bị khác ba tháng sau đó, và một lượt huấn luyện chuẩn nhận hạ cánh tàu sân bay cho phi công thuộc [[Hải quân Hoàng gia Canada]].<ref name=DANFS/>
 
Từ [[tháng 11]], [[1949]] đến [[tháng 3]], [[1951]], ''Saipan'' tiếp tục hoạt động dọc theo vùng bờ Đông từ Virginia Capes. Nó khởi hành vào ngày [[6 tháng 3]], [[1951]] trong vai trò [[soái hạm]] của Đội tàu sân bay 14 để hoạt động cùng [[Đệ lục Hạm đội Hoa Kỳ|Đệ lục Hạm đội]] trong ba tháng; nó hoạt động tại khu vực Tây [[Địa Trung Hải]] cho đến cuối [[tháng 5]], khi nó lên đường quay trở về Hoa Kỳ, về đến vào ngày [[8 tháng 6]]. Nó tiếp nối những hoạt động huấn luyện và thực tập thường lệ cùng [[Đệ nhị Hạm đội Hoa Kỳ|Đệ nhị Hạm đội]] dọc theo bờ biển Đại Tây Dương trong hơn hai năm tiếp theo. Phạm vi hoạt động trải rộng từ [[Greenland]] cho đến vùng biển Caribe, được xen kẻ bởi những chuyến đi thực tập vào mùa Hè các năm [[1952]] và [[1953]] dành cho học viên sĩ quan.<ref name=DANFS/>
 
Vào [[tháng 10]], [[1953]], ''Saipan'' rời vùng bờ Đông để đi sang khu vực [[Thái Bình Dương]] qua ngã [[kênh đào Panama]]. Nó đi đến [[San Diego]] vào ngày [[30 tháng 10]], và tiếp tục hành trình ngang qua [[Trân Châu Cảng]] và [[Yokosuka]], [[Nhật Bản]] để đến vùng biển [[Triều Tiên]], sau khi [[Chiến tranh Triều Tiên]] đã chấm dứt nhờ đạt được một thỏa thuận ngừng bắn. Chiếc tàu sân bay gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm 95, thực hiện các phi vụ khảo sát và trinh sát hình ảnh dọc theo bờ biển, và tuần tra giám sát các đảo phía Nam [[Vĩ tuyến 38 Bắc|vĩ tuyến 38]]. Đến [[tháng 1]], [[1954]], nó hộ tống cho các tàu [[Tank landing ship|LST]] của Nhật Bản vận chuyển những cựu [[tù binh chiến tranh|tù binh]] Trung Quốc từ [[Incheon|Inchon]] đi đến [[Đài Loan]]. Sang [[tháng 2]], nó tham gia thực tập đổ bộ tại vùng biển [[quần đảo Ryūkyū]] trước khi quay trở lại Inchon sẵn sàng cho việc triệt thoái binh lính [[Ấn Độ]] làm nhiệm vụ gìn giữ hòa bình rút lui khỏi [[Bàn Môn Điếm]] khi cần thiết. Sang [[tháng 3]], nó tham gia một cuộc thực tập đổ bộ tại khu vực [[quần đảo Ogasawara|quần đảo Bonin]].<ref name=DANFS/>
 
''Saipan'' sau đó quay trở lại Nhật Bản, nhưng thay vì hoạt động tuần tra giám sát ngừng bắn, nó nhận lên tàu 25 máy bay tấn công [[Vought F4U Corsair|AU-1 Corsair]] và năm máy bay trực thăng [[Sikorsky H-19|Sikorsky H-19A]] tại Yokosuka, rồi lên đường hướng sang [[Việt Nam]]. Vào ngày [[18 tháng 4]], phi công thuộc Phi đội VMA-324 cho cất cánh những máy bay AU-1 để hạ cánh tại [[Tourane]] (nay là [[Đà Nẵng]]), để hỗ trợ cho lực lượng [[Pháp]] trong [[trận Điện Biên Phủ]], giai đoạn cuối cùng của cuộc [[Chiến tranh Đông Dương]]; những máy bay này được chuyển giao cho quân đội Pháp. Sau đó bản thân con tàu tiến vào cảng Đà Nẵng để chất dỡ phụ tùng và nhân sự bảo trì, rồi lên đường đi [[Manila]], [[Philippines]]. <ref name=DANFS/>
 
Đến ngày [[20 tháng 4]], ''Saipan'' bàn giao những máy bay trực thăng cho nhân sự Không quân tại Philippines, và đến cuối tháng đó lại tiếp nối các hoạt động tuần tra ngoài khơi bờ biển Triều Tiên. Con tàu đi đến [[Sasebo, Nagasaki|Sasebo]] vào ngày [[8 tháng 5]], và ở lại cảng này cho đến ngày [[24 tháng 5]]. Sang ngày hôm sau, nó lên đường để quay trở về Hoa Kỳ qua ngã [[kênh đào Suez]], hoàn tất chuyến đi vòng quanh thế giới khi về đến Norfolk vào ngày [[20 tháng 7]].<ref name=DANFS/>
 
=== Vùng bờ Đông và khu vực Caribe ===
Vào [[tháng 10]], [[1954]], sau khi cơn [[bão Hazel]] quét qua suốt khu vực [[Đại Antilles]], tàn phá nhiều vùng thuộc các nước [[Haiti]] và [[Cộng hòa Dominica]] trên đảo [[Hispaniola]], ''Saipan'' lập tức lên đường đi sang khu vực [[biển Caribe]] để làm nhiệm vụ cứu nạn. Từ ngày [[13 tháng 10|13]] đến ngày [[20 tháng 10]], nó chuyển giao thực phẩm, hàng cứu trợ y tế và nhân sự cứu nạn đến các khu vực bị cô lập tại Haiti, rồi quay trở về Norfolk.<ref name=DANFS/>
 
''Saipan'' đi vào [[Xưởng hải quân Norfolk]] từ ngày [[1 tháng 11]] để đại tu, và sau khi hoàn tất nó thực hiện một chuyến đi đến vùng biển Caribe vào [[tháng 4]], [[1955]]. Sang [[tháng 6]], nó chuyển sang hoạt động huấn luyện phi công tại [[Pensacola, Florida]], tham gia huấn luyện chuẩn nhận cho phi công tàu sân bay. Đến cuối [[tháng 9]], con tàu lại được phái sang [[Mexico]], một lần nữa làm công tác trợ giúp khắc phục thiên tai sau một cơn bão lớn. Từ ngày [[1 tháng 10|1]] đến ngày [[9 tháng 10]], máy bay trực thăng của nó đã giúp di tản những người sống sót, vận chuyển nhân viên cứu nạn, phân phối thực phẩm, nước và tiếp liệu y tế, chủ yếu đến vùng [[Tampico]] bị ngập lụt. Chiếc tàu sân bay quay trở về Pensacola vào ngày [[12 tháng 10]], và ở lại đây cho đến [[tháng 4]], [[1957]]. Con tàu được chuyển đến [[Bayonne, New Jersey]], nơi nó bắt đầu đại tu để ngừng hoạt động, và được cho xuất biên chế vào ngày [[3 tháng 10]], [[1957]].<ref name=DANFS/>
 
=== Được cải biến ===
Được xếp lại lớp như một tàu vận chuyển máy bay với ký hiệu lườn '''AVT-6''' vào ngày [[15 tháng 5]], [[1959]], ''Saipan'' tiếp tục nằm trong thành phần của Hạm đội Dự bị Đại Tây Dương cho đến [[tháng 3]], [[1963]]. Nó được chuyển đến xưởng tàu của hãng [[Alabama Dry Dock and Shipbuilding]] Co. tại [[Mobile, Alabama]] để bắt đầu cải biến thành một [[tàu chỉ huy]]. Được tạm thời xếp lớp với ký hiệu '''CC-3''', nó lại được xếp lớp như một tàu chuyển tiếp liên lạc '''AGMR-2''' vào ngày [[1 tháng 9]], [[1964]] trong khi vẫn đang trong quá trình cải tiến. Đến ngày [[8 tháng 4]], [[1965]], con tàu được đổi tên thành '''''Arlington''''', nhằm vinh danh [[quận Arlington, Virginia]], nơi đặt một trong những trạm vô tuyến đầu tiên của Hải quân. Việc sửa đổi hoàn tất vào ngày [[12 tháng 8]], [[1966]], và ''Arlington'' (AGMR-2) đi đến Norfolk, nơi nó được cho tái biên chế vào ngày [[27 tháng 8]] năm [[1966]].<ref name=DANFS/>
 
Việc tiếp tục trang bị và thử nghiệm kéo dài cho đến hết năm đó, và sang [[tháng 1]], [[1967]], ''Arlington'' thực hiện chuyến đi chạy thử máy tại vùng biển Caribe. Nó lên đường đi sang [[vịnh Biscay]] trong [[tháng 2]] và thực tập tại vùng biển [[Bắc Âu]] trước khi quay trở Norfolk về vào [[tháng 3]]. Con tàu lại có chuyến đi đến khu vực Caribe vào [[tháng 4]], và sau khi quay trở về khu vực [[Hampton Roads]], nó chuẩn bị để được biệt phái sang khu vực Tây Thái Bình Dương.<ref name=DANFS/>
 
=== Chiến tranh Việt Nam ===
Rời vào ngày [[7 tháng 7]], ''Arlington'' băng qua kênh đào Panama để tiếp tục đi ngang qua Trân Châu Cảng và Yokosuka để đi đến [[vịnh Subic]], [[Philippines]], nơi nó luân phiên cùng tàu chuyển tiếp liên lạc [[USS Gilbert Islands (CVE-107)|''Annapolis'' (AGMR-1)]] để trực chiến ngoài khơi Việt Nam. Trong lượt tuần tra đầu tiên trong [[vịnh Bắc Bộ]] từ ngày [[21 tháng 8]] đến ngày [[18 tháng 9]], nó cung cấp dịch vụ chuyển tiếp thông tin đến các tàu chiến thuộc [[Đệ Thất hạm đội Hoa Kỳ|Đệ Thất hạm đội]] để hỗ trợ cho các hoạt động tác chiến, cũng như giúp cho các tàu chiến sử dụng có hiệu quả các thiết bị điện tử. Quay trở lại Philippines sau lượt tuần tra đầu tiên, nó được trang bị những ăn-ten liên lạc vệ tinh mới, rồi đến ngày [[2 tháng 10]] đã rời vịnh Subic để đi sang Đài Loan.<ref name=DANFS/>
[[Tập tin:USS Arlington AGMR-2.jpg|thumb|USS ''Arlington'' (AGMR-2), năm 1967.]]
Ở lại Đài Loan chỉ trong ba ngày, ''Arlington'' đi đến vịnh Bắc Bộ, nơi nó tiếp nối vai trò chuyển tiếp liên lạc. Đến cuối [[tháng 10]], nó di chuyển xuống phía Nam để hỗ trợ thông tin liên lạc cho các tàu chiến tham gia [[Chiến dịch Market Time]] ngoài khơi [[Nam Việt Nam]]. Sau 34 ngày trực chiến, nó trải qua năm ngày tại [[Hong Kong]], rồi quay trở lại vịnh Subic và tiếp tục đi đến vịnh Bắc Bộ vào đầu [[tháng 12]] cho lượt tuần tra thứ ba tại [[trạm Yankee]] ngoài khơi [[Bắc Việt Nam]]. Nó rời khu vực vào ngày [[27 tháng 12]] để hướng lên phía Bắc, và đi đến Yokosuka vào ngày [[4 tháng 1]], [[1968]].<ref name=DANFS/>
 
''Arlington'' rời Yokosuka vào ngày [[19 tháng 1]] để quay trở lại vịnh Bắc Bộ, đi đến Trạm Yankee vào ngày [[24 tháng 1]], nhưng lại lên đường hai ngày sau đó để tham gia cuộc tập trận trong [[biển Nhật Bản]] trước khi quay trở lại Trạm Yankee. Trực chiến từ ngày [[13 tháng 2]] đến ngày [[10 tháng 3]], nó đi đến Yokosuka vào ngày [[14 tháng 3]] và ở lại cảng này cho đến ngày [[3 tháng 4]], rồi quay trở lại hoạt động trong vịnh Bắc Bộ từ ngày [[10 tháng 4]]. Một lượt viếng thăm [[Sydney]], [[Australia]] được tiếp nối sau đó, nhưng nó quay trở lại vị trí trực chiến vào giữa [[tháng 6]], rồi viếng thăm Hong Kong từ ngày [[20 tháng 7|20]] đến ngày [[22 tháng 7]] trước khi lên đường đi Yokosuka.<ref name=DANFS/>
 
Từ cuối [[tháng 8]] đến giữa [[tháng 11]], ''Arlington'' hoàn tất thêm hai lượt phục vụ tại trạm Yankee, và sang đầu [[tháng 12]] nó lên đường đi Trân Châu Cảng để tiến hành những thử nghiệm liên lạc. Nó rời khu vực Hawaii vào ngày [[18 tháng 12]] để tham gia Lực lượng Đặc nhiệm 130 làm nhiệm vụ thu hồi những tàu không gian có người lái tại vùng biển Thái Bình Dương. Hoạt động như tàu chuyển tiếp liên lạc chủ yếu tại khu vực hạ cánh, nó đã tham gia hoạt động thu hồi tàu [[Apollo 8]] trước khi quay trở về Trân Châu Cảng vào ngày [[29 tháng 12]]. Chỉ hai ngày sau đó, con tàu lên đường hướng đến Philippines, và vào ngày [[17 tháng 11]], [[1969]] lại tiếp tục vai trò hỗ trợ liên lạc trực tiếp cho các đơn vị hải quân trong vịnh Bắc Bộ. Nó rời trạm Yankee vào ngày [[6 tháng 2]] để được bảo trì tại Yokosuka, rồi hoạt động tại khu vực phía Nam Nhật Bản và [[quần đảo Ryūkyū]] cho đến cuối [[tháng 3]], khi nó ghé qua Hong Kong trên đường quay trở lại Việt Nam.<ref name=DANFS/>
 
==Phần thưởng==
''Arlington'' (AGMR-2) được trao tặng bảy [[Ngôi sao Chiến đấu]] do thành tích phục vụ trong [[Chiến tranh Việt Nam]].<ref name=DANFS/>
 
==Tham khảo==
=== Chú thích ===
{{reflist}}
=== Thư mục ===
* {{cite DANFS | author=[[Naval Historical Center]] | title=Saipan I (CVL-48) | url=https://www.history.navy.mil/research/histories/ship-histories/danfs/s/saipan-i.html | accessdate=2019-10-09}}
* Bài này có các trích dẫn từ nguồn [[:en:Dictionary of American Naval Fighting Ships]] thuộc [[phạm vi công cộng]].
=== Liên kết ngoài ===
* [http://www.saipan48.org USS ''Saipan'' CVL48 Association homepage]
* [http://www.history.navy.mil/photos/sh-usn/usnsh-s/cvl48.htm Navy photos of ''Saipan'']
* [http://www.ussarlington.com/ USS ''Arlington'' Association homepage]
 
{{Sơ khai hàng hải}}
 
{{Lớp tàu sân bay Saipan}}