Khác biệt giữa bản sửa đổi của “USS Thomas E. Fraser (DM-24)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎Trận Okinawa: chính tả, replaced: lẫn tránh → lẩn tránh using AWB
cite DANFS
Dòng 60:
|}
 
'''USS ''Thomas E. Fraser'' (DD-736/DM-24)''' là một [[tàu khu trục|tàu khu trục rải mìn]] [[Robert H. Smith (lớp tàu khu trục)|lớp ''Robert H. Smith'']] được [[Hải quân Hoa Kỳ]] chế tạo trong [[Chiến tranh Thế giới thứ hai]]. Con tàu được đặt theo tên [[Trung tá Hải quân]] [[Thomas E. Fraser]] (1901–1942), Hạm trưởng tàu khu trục {{USS|Walke|DD-416}}, tử trận trong trận [[Hải chiến Guadalcanal]] năm [[1942]] và được truy tặng [[Huân chương Chữ thập Hải quân]].<ref name=DANFS>{{cite web | title=Thomas E. Frazer (DM-24) | url=http://www.history.navy.mil/research/histories/ship-histories/danfs/t/thomas-e-fraser.html | website=Naval History and Heritage Command | accessdate=19 February 2020}}</ref> Nó đã hoạt động cho đến hết chiến tranh, và tiếp tục phục vụ cho đến khi được cho xuất biên chế năm [[1955]], rút đăng bạ năm [[1970]] và tháo dỡ năm [[1974]]. ''Thomas E. Fraser'' được tặng thưởng bốn [[Ngôi sao Chiến trận]] do thành tích phục vụ trong [[Thế Chiến II]].
 
== Thiết kế và chế tạo ==
Con tàu nguyên được đặt lườn, như là tàu khu trục DD-736 thuộc [[Allen M. Sumner (lớp tàu khu trục)|lớp ''Allen M. Sumner'']], vào ngày [[31 tháng 1]] năm [[1944]] tại xưởng tàu của hãng [[Bath Iron Works]] ở [[Bath, Maine]]. Nó được đặt tên ''Thomas E. Fraser'' vào ngày [[1 tháng 3]] năm [[1944]] và được hạ thủy vào ngày [[10 tháng 6]] năm [[1944]]; được đỡ đầu bởi bà Thomas E. Fraser, vợ góa Trung tá Frazer. Nó được xếp lại lớp như một tàu khu trục rải mìn với ký hiệu lườn '''DM-24''' vào ngày [[20 tháng 7]] năm [[1944]], trước khi nhập biên chế vào ngày [[22 tháng 8]] năm [[1944]] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân Ronald Joseph Woodaman.<ref name=DANFS/>
 
== Lịch sử hoạt động ==
=== Thế Chiến II ===
==== Chạy thử máy & huấn luyện ====
Sau khi hoàn tất việc chạy thử máy huấn luyện ngoài khơi [[Bermuda]] và huấn luyện thả/quét [[thủy lôi|mìn]] ngoài khơi [[Yorktown, Virginia]], ''Thomas E. Fraser'' khởi hành từ [[Norfolk, Virginia]] vào ngày [[27 tháng 11]] năm [[1944]], băng qua [[kênh đào Panama]] để đi sang vùng bờ Tây, và đi đến [[San Diego, California]] vào ngày [[12 tháng 12]]. Sau năm ngày huấn luyện khẩn trương tại khu vực [[đảo San Clemente]], nó cùng các tàu chị em {{USS|Shannon|DM-25|3}} và {{USS|Harry F. Bauer|DM-26|3}} rời khu vực bờ biển [[California]] để đi sang [[quần đảo Hawaii]], gặp gỡ hai tàu vận chuyển trên đường đi vào ngày [[21 tháng 12]], và đi vào [[Trân Châu Cảng]] ngày [[26 tháng 12]]. Nó dành thời gian còn lại của năm [[1944]] và phần lớn [[tháng 1]] năm [[1945]] cho hoạt động thực hành huấn luyện tại khu vực quần đảo Hawaii, nhằm chuẩn bị cho [[Trận Iwo Jima|chiến dịch đổ bộ]] tiếp theo lên [[Iwo Jima]].<ref name=DANFS/>
 
==== Trận Iwo Jima ====
''Thomas E. Fraser'' khởi hành vào ngày [[27 tháng 1]] để hộ tống cho Đội đặc nhiệm 51.11, trong hành trình đi ngang qua [[Eniwetok]] để đến khu vực [[quần đảo Mariana]]. Nó đi đến [[Saipan]], điểm tập trung lực lượng sau cùng chuẩn bị cho ciến dịch, vào ngày [[11 tháng 2]], và lực lượng lên đường năm ngày sau đó. Hai giờ trước bình minh vào ngày D [[19 tháng 2]], nó tách khỏi các tàu vận tải để tuần tra chống tàu ngầm tại khu vực vận chuyển ngoài khơi bờ biển phía Nam của [[Iwo Jima]]. Nó hoàn tất đợt càn quét lúc 06 giờ 15 phút và quay lại đảm nhiệm vai trò bảo vệ cho khu vực thả neo. Đến xế trưa, nó chuyển sang nhiệm vụ hỗ trợ hỏa lực tại khu vực phía Đông Nam [[núi Suribachi]]; lúc 17 giờ 37 phút, ở vị trí chỉ cách bờ biển {{convert|1000|yd|m|abbr=on}}, nó bắn hải pháo hỗ trợ theo yêu cầu dưới sự dẫn hướng của một tổ trinh sát pháo binh trên bờ, nả đạn pháo 5-inch xuống các vị trí [[súng máy]] và [[súng cối]] Nhật Bản gần phía Đông Bắc chân núi Suribachi; và đến chiều tối nó chuyển hỏa lực nhắm đến các hang động gần chân núi. Súng máy đối phương trên bờ đã nhắm vào con tàu nhưng không gây hư hại gì; và trong đêm đó nó di chuyển đến vị trí về phía Tây Nam núi Suribachi, bắn hải pháo hỗ trợ và đạn pháo sáng suốt đêm. Pháo sáng đã giúp hỏa lực súng cối của lực lượng [[Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ|Thủy quân Lục chiến]] ngăn chặn được một ý định xâm nhập của đối phương.<ref name=DANFS/>
 
Trong những ngày tiếp theo, ''Thomas E. Fraser'' luân phiên nhiệm vụ bảo vệ cho khu vực vận chuyển với hoạt động hỗ trợ hỏa lực cho binh lính chiến đấu trên bờ. Vào sáng sớm ngày [[21 tháng 2]], đang khi bắn pháo xuống vị trí phía Tây Bắc chân núi Suribachi, một quả đạn pháo cỡ lớn không rõ xuất xứ đã suýt trúng con tàu, gây ra một lổ thủng bên mạn phải ngay bên dưới sàn chính. Dù sao con tàu vẫn tiếp tục bắn pháo vào các vị trí đối phương cho đến cuối buổi chiều, khi nó quay trở lại khu vực thả neo. Trong một đợt báo động phòng không vào chiều tối ngày [[23 tháng 2]], con tàu đã nổ súng vào một máy bay đối phương băng ngang qua mạn trái con tàu; kẻ tấn công đã trốn thoát vì không bị bắn trúng. Con tàu tiếp tục ở lại khu vực Iwo Jima cho đến đầu [[tháng 3]]; vào ngày [[8 tháng 3]], dưới sự trợ giúp của một máy bay trinh sát, hỏa lực của nó bắn trúng ba phát trực tiếp vào một công sự kiên cố của đối phương. Nó khởi hành vào cuối ngày hôm đó, hộ tống cho chiếc {{USS|Lakewood Victory|AK-236|6}} rút lui về [[Ulithi]].<ref name=DANFS/>
 
==== Trận Okinawa ====
Đi đến [[Ulithi]] vào ngày [[11 tháng 3]], ''Thomas E. Fraser'' ở lại vũng biển san hô này trong tám ngày để bảo trì, tiếp liệu và bổ sung đạn dược. Nó cùng Đội quét mìn 2 lên đường vào ngày [[19 tháng 3]] để hướng đến khu vực [[quần đảo Ryūkyū]], và vào trước bình minh ngày [[25 tháng 3]], các [[tàu quét mìn]] bắt đầu các hoạt động rà phá [[thủy lôi]], như một phần của hoạt động nhằm chuẩn bị cho vùng biển [[Nansei Shoto]] trước khi diễn ra các cuộc đổ bộ lên [[Kerama Retto]] và [[Okinawa]]. Chiếc tàu khu trục rải mìn đã tháp tùng các tàu quét mìn nhằm dẫn đường và hỗ trợ hỏa lực, và trong ngày hôm đó nó đã bắn vào các mục tiêu trên bờ trên các đảo nhỏ tại khu vực Okinawa. Đến ngày [[27 tháng 3]], nó nả pháo vào những mục tiêu tại chính đảo Okinawa; nó không rút lui cùng các tàu quét mìn vào ban đêm, nhưng tuần tra tại một vị trí ngoài khơi hòn đảo này, và trong suốt đêm đã bắn pháo sáng và hỏa lực quấy rối xuống các bãi biển ở phía Nam hòn đảo.<ref name=DANFS/>
 
Vào sáng sớm ngày [[29 tháng 3]], ''Thomas E. Fraser'' nổ súng vào một chiếc [[Mitsubishi G4M]] "Betty" Nhật Bản đang tấn công, bắn cháy chiếc [[máy bay ném bom]] hai động cơ khiến đối thủ rơi xuống biển. Các đợt không kích diễn ra thường xuyên hơn sau đó, và sau nữa đêm ngày [[31 tháng 3]], nó đánh đuổi một máy bay Nhật Bản tấn công đơn độc; rồi chỉ ít phút sau một [[máy bay ném bom bổ nhào]] đối phương lại tấn công, nó trúng đạn pháo 5-inch và lướt qua bên trên con tàu trước khi rơi phía đuôi tàu. Đến 03 giờ 20 phút, một [[thủy phi cơ]] bay thấp bất ngờ xuất hiện mà không có cảnh báo, thả một quả bom nổ trượt phía đuôi tàu bên mạn trái rồi biến mất trước khi hỏa lực phòng không của con tàu kịp phản ứng. Chiếc tàu khu trục rải mìn tiếp tục hộ tống các tàu quét mìn để bảo vệ và dẫn đường cho đến khi hoàn tất nhiệm vụ vào cuối ngày hôm đó, rồi đi đến Kerama Retto để bảo vệ tàu bè tại vị trí neo đậu.<ref name=DANFS/>
 
Đang khi hộ tống cho Đội quét mìn 7 về phía Tây Nam Kerama Retto vào ngày [[2 tháng 4]], ''Thomas E. Fraser'' đã nổ súng vào hai máy bay đối phương tấn công, đánh đuổi chiếc thứ nhất và bắn trúng chiếc thứ hai bay ngang trê đầu bằng vũ khí tự động; kẻ tấn công bị bắn cháy và rơi xuốg biển. Trước khi trời sáng, nó còn nổ súng vào những máy bay đối phương khác nhưng không trúng đích. Sau khi được bổ sung đạn dược tại Kerama Retto vào xế trưa hôm đó, nó lên đường để gia nhập một đơn vị đặc nhiệm tàu vận chuyển đang rút lui vào ban đêm đến vị trí neo đậu. Khi nó tiếp cận các tàu vận tải, bảy chiếc "Betty" đối phương đã tấn công. Hỏa lực phòng không của các tàu vận tải và lực lượng hộ tống đã bắn rơi bốn chiếc; tuy nhiên tàu vận tải {{USS|Henrico|APA-45|3}}, ở cách đó năm dặm, bị trúng một quả bom, và một máy bay tấn công cảm tử [[kamikaze]] đã đâm trúng đuôi tàu vận tải {{USS|Goodhue|APA-107|3}}.<ref name=DANFS/>
 
''Thomas E. Fraser'' tiếp tục nhiệm vụ hộ tống bảo vệ ngoài khơi Kerama Retto cho đến ngày [[5 tháng 4]], khi nó lên đường hộ tống cho một đoàn tàu vận tải rỗng quay trở lại Saipan. Tuy nhiên trên đường đi, nó được lệnh tách khỏi đoàn tàu, và cùng với tàu khu trục {{USS|Bache|DD-470|3}} chuyển hướng đến [[Guam]], đến nơi vào ngày [[8 tháng 4]].<ref name=DANFS/>
 
Sau khi được trang bị một dàn ăn-ten [[radar]] mới, ''Thomas E. Fraser'' đi đến Saipan vào ngày [[18 tháng 4]], rồi lên đường quay trở lại khu vực Ryūkyū hai ngày sau đó cùng một đơn vị đặc nhiệm tàu đổ bộ, hộ tống những chiếc [[Landing Ship Tank|LST]] đi đến một vị trí phân tán ngoài khơi [[Nakagusuku Wan]], và sau đó nó chiếm lấy vị trí bảo vệ ngoài khơi bờ biển Tây Nam Okinawa. Vào ngày [[28 tháng 4]], một máy bay Nhật Bản bay thấp tiếp cận từ hướng hòn đảo và phóng một quả [[ngư lôi]] nhắm vào con tàu nhưng bị trượt; kẻ tấn công lẩn tránh được hỏa lực phòng không dày đặc của con tàu và chạy thoát. Đến chiều tối, nó lại đánh trả một đợt không kích khác trước khi đi đến trợ giúp cho một [[tàu bệnh viện]] bị một máy bay Kamikaze đâm trúng. Tìm thấy {{USS|Comfort|AH-6|3}} bị hư hại nhưng vẫn có thể di chuyển được bằng chính động lực của mình, nó hộ tống cho chiếc tàu bệnh viện rút lui về Guam, đến nơi vào ngày [[3 tháng 5]].<ref name=DANFS/>
 
''Thomas E. Fraser'' sau đó được lệnh quay trở lại Okinawa để tăng cường cho lực lượng các tàu khu trục Hoa Kỳ làm nhiệm vụ cột mốc [[radar]] canh phòng chung quanh phạm vi hòn đảo, vốn đã bị hao hụt do những đợt không kích tự sát của đối phương. Di chuyển chỉ với chân vịt bên mạn phải trong khi động cơ phía mạn trái đang được sửa chữa, nó rời [[Apra Harbor]] vào ngày [[4 tháng 5]] và đi đến ngoài khơi Okinawa ba ngày sau đó, nơi nó đảm nhiệm vai trò bảo vệ và cột mốc radar canh phòng. Đang khi hoạt động trong đội hình hộ tống bảo vệ ngoài khơi bãi Hagushi vào ngày [[12 tháng 5]], nó đã giúp đánh trả một loạt các đợt không kích cảm tử Kamikaze mà một chiếc máy bay tự sát đã đâm trúng [[thiết giáp hạm]] {{USS|New Mexico|BB-40|3}}.<ref name=DANFS/>
 
Trong suốt [[tháng 5]], ''Thomas E. Fraser'' luân phiên nhiệm vụ cột mốc radar canh phòng ngoài khơi Okinawa với những giai đoạn bảo trì và tiếp liệu tại Kerama Retto và [[Hagushi]]. Vào cuối ngày [[24 tháng 5]], nó đối đầu với một đợt không kích xuất phát từ phía Bắc, bắn rơi một máy bay đối phương gần [[le Shima]]; đợt không kích kéo dài trong hơn mười giờ cho đến sáng sớm ngày hôm sau [[25 tháng 5]]. Con tàu sau đó trải qua năm ngày tại Kerama Retto nơi nó được bổ sung những thiết bị dẫn đường máy bay chiến đấu, và đến ngày [[30 tháng 5]] lại tiếp nối nhiệm vụ cột mốc radar tại vị trí về phía Tây Nam Okinawa. Khi nó đang di chuyển tại trạm canh phòng lúc chiều tối ngày [[1 tháng 6]], hai [[máy bay ném bom-ngư lôi]] đối phương bay thấp đã bất ngờ tấn công bằng [[ngư lôi]]. Chiếc tàu khu trục rải mìn đã cơ động né tránh được đợt tấn công rồi tham gia cùng các tàu khác để đánh trả đối thủ.<ref name=DANFS/>
 
Vào ngày [[6 tháng 6]], ''Thomas E. Fraser'' đi đến trạm cột mốc radar để thay phiên cho tàu chị em {{USS|J. William Ditter|DM-31|3}}, vốn chịu đựng hư hại nặng do bị máy bay Kamikaze đâm trúng. Nó quay trở lại Kerama Retto hai ngày sau đó để chuẩn bị cho một nhiệm vụ mới, khảo sát [[thủy đạc học|thủy văn]] và quét mìn tại khu vực giữa Kerama Retto và [[Sakishima Gunto]]. Hoạt động chủ yếu như một tàu thả phao tiêu đánh dấu, nó tháp tùng những [[tàu quét mìn]] tại phía Nam Nansei Shoto trong suốt [[tháng 6]], xen kẻ với hai lần quay trở lại Kerama Retto để bổ sung phao tiêu radar và bảo trì động cơ. Đang khi thả neo tại Kerama Retto vào chiều tối ngày [[21 tháng 6]], nó đã khiakhai hỏa vào một máy bay đối phương vốn đã xâm nhập hàng rào phòng không và ném bom trúng chiếc [[tàu tiếp liệu thủy phi cơ]] {{USS|Curtiss|AV-4|3}} lân cận, trợ giúp vào việc bắn rơi kẻ tấn công xuống biển không xa chiếc tàu tiếp liệu.<ref name=DANFS/>
 
=== Sau chiến tranh ===
Sang [[tháng 8]], ''Thomas E. Fraser'' hoạt động tại khu vực [[vịnh Buckner]], Okinawa, thả phao tiêu dẫn đường cho các tàu quét mìn rà quét trong [[biển Hoa Đông]]. Sau khi [[Đế quốc Nhật Bản|Nhật Bản]] [[Nhật Bản đầu hàng|chấp nhận đầu hàng]] kết thúc cuộc xung đột, nó đi lên phía bắc để gặp gỡ [[Đệ tam Hạm đội Hoa Kỳ|Đệ tam Hạm đội]]. Vào ngày [[25 tháng 8]], lực lượng đặc nhiệm tiếp cận khu vực [[Tokyo]], và chiếc tàu khu trục rải mìn bắt đầu tuần tra tại [[Sagami Wan]] hai ngày sau đó. Vào sáng ngày [[28 tháng 8]], nó hỗ trợ cho {{USS|Ellyson|DMS-19|3}} và {{USS|Hambleton|DMS-20|3}} khi các tàu quét mìn dọn sạch tuyến luồng chuẩn bị cho [[tàu tuần dương hạng nhẹ]] {{USS|San Diego|CL-53|3}} tiến vào [[vịnh Tokyo]]. Trong thời gian còn lại của [[tháng 8]], nó hỗ trợ các tàu quét mìn rà quét bãi mìn Okinoyama, và đã có mặt trong vịnh Tokyo vào ngày [[2 tháng 9]] khi [[Nhật Bản đầu hàng|văn kiện đầu hàng]] được chính thức ký kết trên thiết giáp hạm {{USS|Missouri|BB-63|3}}.<ref name=DANFS/>
 
== Phần thưởng ==