Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nùng Trí Cao”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi |
LÀM ƠN ĐỪNG TỰ Ý SỬA HỌ CỦA NGƯỜI TA NỮA, CHỮ 儂 KHÔNG CÓ HÁN ÂM NÀO LÀ "NỒNG". HÃY TÔN TRỌNG LỊCH SỬ ! |
||
Dòng 1:
{{Thông tin nhân vật hoàng gia
| tên =
| tên gốc =
| tước vị = [[Hoàng đế]]
Dòng 7:
| hình = Nong Zhigao's Art Photo.jpg
| cỡ hình = 270px
| ghi chú hình = Chân dung phỏng dựng năm 1917<br>
| chức vị = [[Hoàng đế]] họ
| tại vị = 1041 và 1052-1055
| kiểu tại vị = Lập quốc
| đăng quang =
| tiền nhiệm = [[
| nhiếp chính = [[A
| kế nhiệm = Tan rã
| hoàng tộc = [[
| kiểu hoàng tộc = Chính phủ
| tên đầy đủ =
| tên tự =
| tên hiệu =
Dòng 39:
| phối ngẫu =
| vợ = [[Đoạn Hồng Ngọc]] (vợ cả - người Bản Ngần, Vĩnh Quang)<br> [[Nàng Cầm]] (người thành Thăng Long)
| thông tin con cái = [[
| con cái =
| cha =
| mẹ = [[A
| sinh = 1025
| nơi sinh = [[Quảng Nguyên]]
Dòng 54:
| chữ ký =
}}
'''
Sau khi nhà Tống thống nhất Trung Quốc, đối với các sắc tộc mà Hán tộc coi họ là man di, nhà Tống đặt ra một hệ thống hành chánh mới cho các sắc tộc này, đó là hệ thống ''“ki mi”'' gọi là ''“ki mi chế”'' (jimi zhi 羁縻制), có nghĩa là các sắc tộc hay các bộ lạc tự quản trị địa phương của mình, tuy nhiên thuế khoá hay nhân lực vẫn được kiểm soát bởi chính quyền trung ương. Các vùng đất của các bộ tộc này sinh sống được gọi là các ''“châu ki mi”''. Các bộ tộc người Tráng có được một quy chế bớt bị đàn áp hơn so với thời nhà Đường, nên một số lớn đã hợp tác với chính quyền nhà Tống, cho đến khi có sự nổi dậy của '''
==Tiểu sử==
Theo ''[[Tục tư trị thông giám]]'' (nhà Tống) thì vợ Tồn Phúc là A
===Đại Lịch===
Năm 1041,
Năm 1048, Trí Cao lại nổi dậy không thần phục nhà Lý, chiếm giữ đất của Đại Việt là động Vật Ác (phía bắc [[Cao Bằng]], sau thuộc Tống bị nhà Tổng đổi thành Thuận An châu, nay là các hương trấn biên giới thuộc thị xã [[Tĩnh Tây]] địa cấp thị [[Bách Sắc]] khu Tự trị Dân tộc Choang Quảng Tây, tiếp giáp các huyện [[Hà Quảng]], [[Trà Lĩnh]] tỉnh Cao Bằng, có thể là vùngː hương [[Thôn Bàn]], hương [[An Ninh]], trấn [[Long Bang]],...) và đổi vùng đất dưới sự quản trị của mình thành nước Đại Nam (大南). Lý Thái Tông sai [[Quách Thịnh Dật]] đi đánh, Trí Cao lại thua và xin đầu hàng. Tuy nhiên, theo giai thoại của người Tày, khi quân Lý tới nơi, ông nói với Quách Thịnh Dật đừng tiến quân, ông sẽ không gây hấn với [[nhà Lý]] nữa mà sẽ tiến sang phương Bắc. Nhà Lý tha về việc phản loạn, để
===Đại Nam===
Năm 1052,
Quân của
Nhà Tống sai quân đến tấn công, nhưng đều bị Trí Cao đánh bại. Cuối cùng, vua Tống phải cử Địch Thanh (Di Qing 狄青) là một đại tướng có tài, nhiều kinh nghiệm hành quân với 25 lần lâm trận – đã từng chiến thắng quân Tây Hạ (Xi-Xia 西夏). Địch Thanh mang 31 ngàn quân và 32 tướng từ Hồ Nam kéo quân đến đóng tại Quế châu (Guizhou 贵州, là Quế Lâm ngày nay). Để có thể chống với cách hành binh thần tốc của
Nhà Tống lo sợ. [[Lý Thái Tông]] dâng biểu sang Trung Quốc xin mang quân phối hợp đánh
Nhân khi Trí Cao dâng biểu xin lĩnh chức Tiết độ sứ Ung châu và Quý châu, vua nhà Tống đã toan thuận cho, Địch Thanh lại can không nên chấp thuận và xin đem quân đi đánh.
Đầu năm 1053, [[Địch Thanh]] ra hợp quân với Dư Tĩnh và Tôn Miện đóng ở Tân Châu (Liễu Châu, tỉnh Quảng Tây) rồi hội các tướng lại cấm không cho ra đánh nhau với Trí Cao. Bấy giờ có quan Kiềm hạt tỉnh Quảng Tây là Trần Thự trái tướng lệnh đem quân đi đánh bị thua, Địch Thanh đem chém đi, rồi lệnh cho quân nghỉ 10 ngày. Quân đi thám biết chuyện về báo Trí Cao biết. Trí Cao tưởng là quân nhà Tống không dám đánh, bèn không phòng giữ. Nhân đêm tối, Địch Thanh cho quân chiếm đèo Côn Luân (gần phủ [[Nam Ninh]]). Đây là một cửa ải sống còn của
Tháng 10 năm 1053, Trí Cao sai thủ hạ là Lương Châu đến cầu cứu [[Đại Cồ Việt]]. Lý Thái Tông sai Chỉ huy sứ Vũ Nhị đi tiếp ứng cho Trí Cao. Nhưng quân Lý chưa tới nơi thì Trí Cao lại bị Địch Thanh đánh bại, phải chạy trốn sang nước [[Đại Lý]]. Quân Lý rút về.
Năm 1055, thời vua [[Lý Thánh Tông]] ở [[Đại Việt]], Đô giám nhà Tống là Tiêu Chú lại theo đường Đặc Ma ([[Vân Nam]]) đánh úp, bắt được mẹ Trí Cao là A
Quân cảm tử chưa tới thì người nước [[Vương quốc Đại Lý|Đại Lý]] ngại gây hấn với nhà Tống đã bắt
==Tục thờ
[[Tập tin:Tong quan den Ky Sam - Cao Bang.JPG|nhỏ|Cảnh quan đền Kỳ Sầm.]]
Mặc dù sự quật khởi của Nùng Trí Cao – dựng một vương quốc độc lập cho dân tộc Tráng – đã không thành công, nhưng người Tráng đã tôn ông như một nhân vật cực kỳ anh hùng, gọi ông là '''''“Vua
Sau khi ông mất, vua Lý đã sắc phong cho ông là Khâu Sầm Đại Vương. Đền ''Khâu Sầm (Kỳ Sầm) đại vương'' thờ
==Xem thêm==
Dòng 103:
*Việt Sử kỷ yếu - Trần Xuân Sinh, Nhà Xuất bản Hải Phòng, 2004.
*[http://www.gio-o.com/NgoBacJGBarlow.html Người Choang thời nhà Tống]
* {{chú thích sách|title=The rebel den of
|author=James Anderson
|publisher=Univ of Washington Press
Dòng 109:
|isbn=0295986891
|url=http://books.google.com/books?id=gnt4nFam2BgC&printsec=frontcover}}
*[https://web.archive.org/web/20070928181029/http://www.caobang.gov.vn/default.aspx?tabid=253&ID=420&CateID=129 Chuyện tình Thái bảo
{{Lịch sử Việt Nam thời Lý}}
[[Thể loại:Người Tráng]]
[[Thể loại:Nhân vật thời nhà Lý]]
[[Thể loại:Người
[[Thể loại:Mất năm 1055]]
[[Thể loại:Sinh năm 1025]]
|