Khác biệt giữa bản sửa đổi của “USS Richard E. Kraus (DD-849)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
AlphamaEditor, Executed time: 00:00:05.3269493 using AWB
Dòng 77:
=== 1946 - 1965 ===
Sau khi hoàn tất việc chạy thử máy tại vùng biển ngoài khơi [[Boston, Massachusetts]], ''Richard E. Kraus'' trình diện để phục vụ cùng Tư lệnh Lực lượng Thử nghiệm và Đánh giá Tác chiến tại căn cứ [[Norfolk, Virginia]]. Trong sáu năm tiếp theo, nó tham gia các hoạt động thử nghiệm phát triển vũ khí đạn dược. Vào năm [[1947]], bệ pháo 40&nbsp;mm phía sau của nó được tháo dỡ để lấy chỗ trang bị [[pháo 3 inch/50 caliber]] nhằm mục đích thử nghiệm đánh giá.<ref name=DANFS/>
 
Vào năm [[1948]], ''Richard E. Kraus'' trợ giúp cho chiếc {{USS|Mississippi|AG-128|3}}, nguyên là một [[thiết giáp hạm]] được cải biến thành một tàu huấn luyện tác xạ, trong việc thử nghiệm phát triển [[tên lửa đất đối không]] [[RIM-2 Terrier]]. Sau đó nó tham gia vào việc đánh giá các thiết bị điện tử, bao gồm [[radar]] và hệ thống thông tin liên lạc; ngoài ra nó còn tiến hành thử nghiệm những thiết kế mới của mỏ neo, cáp kéo và chất nổ dưới nước. Nó được xếp lại lớp với ký hiệu lườn '''AG-151''' vào ngày [[25 tháng 8]], [[1949]], nhưng quay trở lại ký hiệu lườn cũ '''DD-849''' vào ngày [[11 tháng 1]], [[1954]].<ref name=DANFS/>
 
''Richard E. Kraus'' tham gia một cuộc tập trận chống tàu ngầm quy mô lớn vào [[tháng 5]], [[1954]]. Trong các năm [[1955]], [[1958]] và [[1960]], nó hoạt động huấn luyện tại khu vực [[vịnh Guantánamo, Cuba]]; và trong năm [[1961]], nó đã hoạt động cùng [[Lực lượng Đặc nhiệm Bravo]], một trong những đội đặc nhiệm chống tàu ngầm hàng đầu của hải quân. Vào [[tháng 10]] và [[tháng 11]], [[1962]], khi xảy ra vụ [[Khủng hoảng tên lửa Cuba]] do phát hiện việc [[Liên Xô]] bố trí [[tên lửa đạn đạo]] tầm trung mang đầu đạn [[hạt nhân]] tại [[Cuba]], con tàu đã tham gia chiến dịch cô lập hàng hải hòn đảo [[Trung Mỹ]] này. Nó tách khỏi Hải đội Khu trục 2 vào ngày [[1 tháng 1]], [[1963]], và trong [[tháng 3]] và [[tháng 4]] đã hoạt động cùng [[Đệ Lục hạm đội Hoa Kỳ|Đệ Lục hạm đội]] tại [[Địa Trung Hải]].<ref name=DANFS/>
 
Từ [[tháng 6]], [[1963]] đến [[tháng 5]], [[1964]], ''Richard E. Kraus'' đi vào [[Xưởng hải quân Boston]] để được sửa chữa và nâng cấp trong khuôn khổ Chương trình [[Hồi sinh và Hiện đại hóa Hạm đội]] I (FRAM: Fleet Rehabilitation and Modernization), nhằm kéo dài vòng đời hoạt động thêm 10 đến 20 năm, đồng thời nâng cao năng lực tác chiến chống ngầm. Nó được cải tiến với những thiết bị điện tử, [[radar]] và [[sonar]] hiện đại, được bổ sung hai bệ [[ống phóng ngư lôi Mark 32 cho hạm tàu nổi|ống phóng ngư lôi Mark 32]] ba nòng, bệ phóng tên lửa chống ngầm [[RUR-5 ASROC]] giữa các ống khói, cùng hầm chứa và sàn đáp để vận hành [[máy bay trực thăng]] không người lái chống tàu ngầm [[Gyrodyne QH-50 DASH]].<ref name=DANFS/>
 
Hoàn tất việc nâng cấp vào ngày [[18 tháng 5]], [[1964]], ''Richard E. Kraus'' rời xưởng tàu để đi đến cảng nhà mới [[Newport, Rhode Island]]. Sau những lượt huấn luyện dọc theo vùng bờ Đông và vùng [[biển Caribe]], nó khởi hành vào ngày [[27 tháng 11]], [[1964]] cho một lượt phục vụ khác cùng Đệ Lục hạm đội rồi cùng Lực lượng Trung Đông. Trong đợt này nó hoạt động chủ yếu tại biển [[Hồng Hải]] và [[Ấn Độ Dương]], viếng thăm thiện chí các cảng vùng Đông Phi và trợ giúp các tàu buôn trước khi quay trở về Newport vào ngày [[13 tháng 3]], [[1965]]. Nó tiếp tục tiến hành các cuộc thực tập chống tàu ngầm, và đến đầu [[tháng 12]] đã tham gia vào [[Chương trình Gemini]] khi phục vụ cho việc thu hồi tàu không gian [[Gemini 6]] tại vùng biển Đại Tây Dương, cho đến khi cuộc phóng bị tạm hoãn.<ref name=DANFS/>
 
=== 1966 - 1976 ===
 
== Phần thưởng ==