Khác biệt giữa bản sửa đổi của “USS Rupertus (DD-851)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
AlphamaEditor, Executed time: 00:00:05.4275856 using AWB
Dòng 80:
 
=== 1950 - 1959 ===
Sau sự kiện lực lượng [[Bắc Triều Tiên]] tấn công xuống lãnh thổ [[Nam Triều Tiên]] vào [[tháng 7]], [[1950]] khiến [[Chiến tranh Triều Tiên]] bùng nổ, ''Rupertus'' khởi hành từ San Diego vào ngày [[13 tháng 11]] để phục vụ cùng Lực lượng [[Liên Hiệp Quốc]] trong cuộc xung đột này. Nó đã bảo vệ cho [[tàu sân bay hộ tống]] {{USS|Sicily|CVE-118|3}} di chuyển từ [[Sasebo]] đến [[Hŭngnam]], [[Triều Tiên]]; rồi từ ngày [[14 tháng 5]], [[1951]] đã hoạt động cùng Lực lượng Đặc nhiệm 95, lực lượng phong tỏa và hộ tống Liên Hiệp Quốc, tại vùng vờ biển phía Tây Triều Tiên và biển [[Hoàng Hải]]. Nó tách khỏi Lực lượng Đặc nhiệm 95 để di chuyển đến ngoài khơi [[Wonsan]], trải qua mười ngày hoạt động tại khu vực gần [[Songju]] và đã nả pháo xuống các mục tiêu đối phương dọc bờ biển. Nó tiếp tục hoạt động này cho đến ngày [[4 tháng 7]], khi nó quay trở lại [[Inchon]] giữa lúc diễn ra các cuộc đàm phán hòa bình.<ref name=DANFS/>
 
Quay trở về San Diego vào ngày [[8 tháng 8]], [[1951]], ''Rupertus'' lại lên đường vào ngày [[23 tháng 2]], [[1952]] để gia nhập [[Đệ Thất hạm đội Hoa Kỳ|Đệ Thất hạm đội]]. Thoạt tiên hoạt động cùng các tàu sân bay nhanh thuộc Lực lượng Đặc nhiệm 77, nó sau đó được điều động cùng [[tàu tuần dương hạng nhẹ]] {{USS|Manchester|CL-83|3}} vào hoạt động bắn phá khu vực Hŭngnam-[[Hannum]]; và đã giải cứu một phi công từ tàu sân bay {{USS|Boxer|CV-21|3}} dưới hỏa lực pháo bờ biển ác liệt của đối phương. Quay trở về Hoa Kỳ, nó đi đến [[Xưởng hải quân Long Beach]] vào ngày [[6 tháng 10]] để được đại tu.<ref name=DANFS/>
 
Khởi hành từ San Diego vào ngày [[16 tháng 5]], [[1953]] để đi sang khu vực Tây Thái Bình Dương, ''Rupertus'' đã hộ tống cho [[tàu tuần dương hạng nặng]] {{USS|Bremerton|CA-130|3}} thuộc Lực lượng Đặc nhiệm 77 trong các nhiệm vụ bắn phá bờ biển tại Triều Tiên, tham gia thực hành tìm-diệt tàu ngầm, và huấn luyện học viên sĩ quan thuộc [[Hải quân Trung Hoa dân quốc]] tại vùng biển [[Đài Loan]]. Nó cũng tham gia lễ hội kỷ niệm 100 năm sự kiện [[Thiếu tướng Hải quân]] [[Matthew C. Perry]] viếng thăm [[Nhật Bản]] trước khi quay trở về San Diego.<ref name=DANFS/>
 
=== 1960 - 1969 ===
Khi cuộc xung đột tại Triều Tiên kết thúc vào [[tháng 7]], [[1953]] nhờ đạt được một thỏa thuận ngừng bắn, ''Rupertus'' vẫn tiếp nối những lượt biệt phái hoạt động hàng năm sang Viễn Đông cho đến năm [[1960]], khi nó chuyển cảng nhà đến [[Yokosuka]]. Nó quay trở về [[San Francisco]] vào ngày [[13 tháng 12]], [[1962]] để được sửa chữa và nâng cấp trong khuôn khổ Chương trình [[Hồi sinh và Hiện đại hóa Hạm đội]] I (FRAM: Fleet Rehabilitation and Modernization), nhằm kéo dài vòng đời hoạt động thêm 10 đến 20 năm, đồng thời nâng cao năng lực tác chiến chống ngầm. Nó được cải tiến với những thiết bị điện tử, [[radar]] và [[sonar]] hiện đại, được bổ sung hai bệ [[ống phóng ngư lôi Mark 32 cho hạm tàu nổi|ống phóng ngư lôi Mark 32]] ba nòng, bệ phóng tên lửa chống ngầm [[RUR-5 ASROC]] giữa các ống khói, cùng hầm chứa và sàn đáp để vận hành [[máy bay trực thăng]] không người lái chống tàu ngầm [[Gyrodyne QH-50 DASH]].<ref name=DANFS/>
 
== Phần thưởng ==