Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lockheed SR-71 Blackbird”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎Cằm: replaced: tam giác → tam giác using AWB
sai địa danh
Dòng 21:
Chiếc '''Lockheed SR-71''' là một kiểu [[máy bay trinh sát]] [[chiến lược]] tiên tiến tầm xa, đạt được tốc độ [[Mach]] 3, được phát triển từ các kiểu máy bay Lockheed [[Lockheed YF-12|YF-12A]] và [[Lockheed A-12|A-12]] bởi nhóm [[Skunk Works]] của hãng [[Lockheed Corporation|Lockheed]]. Chiếc SR-71 được gọi một cách không chính thức là '''Blackbird''', và được các đội bay gọi tên lóng là '''Habu''' ("snake"). [[Clarence Johnson|Clarence "Kelly" Johnson]] là người chịu trách nhiệm về nhiều khái niệm tiên tiến trong thiết kế, và chiếc SR-71 là một trong những máy bay đầu tiên được tạo dáng để giảm thiểu [[mặt cắt radar]], cho dù tín hiệu radar của nó vẫn có thể phát hiện được bởi các hệ thống radar hiện đại, không giống như những kiểu máy bay [[kỹ thuật tàng hình|"tàng hình"]] sau này. Ưu thế để tự vệ của chiếc máy bay này là tốc độ và trần bay cao; khi phát hiện thấy [[tên lửa đất-đối-không]] được phóng ra hướng về phía mình, cách thoát ra đơn giản chỉ cần tăng tốc.
 
Kiểu máy bay SR-71 đã phục vụ từ năm [[Hàng không năm 1964|1964]]. SR-71 bị chỉ trích vì sự không an toàn và độ tin cậy thấp của nó, với 12 trong tổng số 32 máy bay chế tạo bị mất trong các tai nạn khi hoạt động (trong đó 11 chiếc bị rơi chỉ trong 6 năm từ 1966-1972), cho dù không có chiếc nào bị mất do các hoạt động của đối phương.<ref>[http://www.sr-71.org/blackbird/losses.php Blackbird Losses]</ref>. Đến giữa thập niên 1970, khi Liên Xô cho ra đời tiêm kích đánh chặn [[MiG-31]] có vận tốc Mach 3, SR-71 không còn được sử dụng để do thám không phận Liên Xô nữa và giảm hẳn hoạt động, dù vậy vẫn có thêm 1 chiêc bị rơi năm 1989 ở [[biển Nam Trung HoaĐông]]. Đến năm 1998, những chiếc SR-71 còn lại chính thức ngừng hoạt động.
 
== Thiết kế và phát triển ==