Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nhà Hán”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động |
Không có tóm lược sửa đổi |
||
Dòng 11:
| image_map = Han Civilisation.png
| image_map_caption = Cương thổ nhà Hán năm 189, vùng màu nâu là những vùng kiểm soát có hiệu quả
| capital = [[Trường An]]<small><br />(
| common_languages = [[Tiếng Hán thượng cổ|Tiếng Hán cổ]]
| religion = [[Đạo giáo]], [[Nho giáo|Khổng giáo]], [[Phật giáo]] và [[Tín ngưỡng dân gian Trung Hoa|các tôn giáo dân gian]] cùng tín ngưỡng bản địa khác
Dòng 79:
}}
{{Lịch sử Trung Quốc}}
'''Nhà Hán''' ({{zh|t=漢朝|s=汉朝|p=Hàn cháo|w=Han Ch'au|hv=Hán triều}}; [[206 TCN]] – [[220]]) là triều đại kế tục [[nhà Tần]] ([[221 TCN]] – [[207 TCN]]), và được tiếp nối bởi thời kỳ [[Tam Quốc]] (220-280). Triều đại này được thành lập bởi [[Hán Cao Tổ|Lưu Bang]], một lãnh tụ khởi nghĩa chống lại sự cai trị của nhà Tần, được biết đến sau khi qua đời là
Chính việc này đã chia nhà Hán thành hai giai đoạn: '''Tây Hán''' (
Kéo dài 4 thế kỷ, nhà Hán được xem như là Triều đại huy hoàng nhất trong lịch sử Trung Quốc.<ref>Chu (2003), 34.</ref> Cho đến ngày nay, nhóm dân tộc chiếm phần lớn dân số Trung Quốc cũng tự cho mình là [[người Hán]], và chữ viết Trung Quốc cũng được xem là [[chữ Hán]].<ref>Schaefer (2008), 279.</ref>
Dòng 88:
== Từ nguyên ==
Theo ''[[Sử ký Tư Mã Thiên]]'', sau sự sụp đổ của [[nhà Tần]], bá quyền [[Hạng Vũ]] đã bổ nhiệm Lưu Bang làm Hán Vương của thái ấp non trẻ [[Hán Trung]], được đặt tên theo vị trí của nó trên [[Sông Hán (Hồ Bắc)|sông Hán]] (ở phía tây nam của tỉnh [[Thiểm Tây]]). Sau chiến thắng của Lưu Bang trong [[chiến tranh Hán-Sở]], hệ quả là nhà Hán được đặt theo tên của thái ấp Hán Trung.
== Vai trò ==
Dòng 95:
Ở thời Hán, Trung Quốc chính thức trở thành một đất nước theo [[Nho giáo|Khổng giáo]] và phát triển thịnh vượng: [[nông nghiệp]], [[thủ công]] và thương mại tiến bộ và dân chúng đạt tới con số 50 triệu người. Trong lúc ấy, đế chế mở rộng ảnh hưởng văn hóa và chính trị của nó đến toàn bộ [[Việt Nam]], [[Triều Tiên]], [[Mông Cổ]] và [[Trung Á]] trước khi nó sụp đổ vì cả sức ép bên trong và bên ngoài.
Giai đoạn đầu tiên trong hai giai đoạn của nhà Hán, được gọi là '''Tiền Hán''' (前漢) hay triều '''Tây Hán''' (西漢
Trí thức, văn chương và nghệ thuật hồi sinh và phát triển ở thời nhà Hán. Giai đoạn Hán là thời của nhà sử học nổi tiếng nhất Trung Quốc, [[Tư Mã Thiên]] (145 – 87 TCN?), cuốn [[Sử ký Tư Mã Thiên]] của ông ghi chép biên niên sử chi tiết từ thời kỳ còn huyền thoại là nhà Hạ đến thời [[Hán Vũ Đế|Vũ đế]] nhà Hán (141–87 TCN). Các tiến bộ kỹ thuật cũng ghi dấu ở thời kỳ này. Một trong những phát minh vĩ đại của Trung Quốc: [[giấy]], đã ra đời từ thời Hán.
Dòng 111:
[[Hình:Hangaozu.jpg|250px|nhỏ|trái|[[Hán Cao Tổ]] Lưu Bang]]
Cuộc chiến tiếp theo diễn ra giữa các nước đó trong 5 năm (206-202 TCN), gọi là thời [[Chiến tranh Hán-Sở|Hán Sở tranh hùng]]. [[Hán Cao Tổ|Lưu Bang]] là người giành thắng lợi cuối cùng, trở thành vị vua đầu tiên của nhà Hán. Ban đầu, "Hán" (là địa giới do Hạng Vũ phân chia) chỉ gồm vùng Tứ Xuyên, Trùng Khánh và phía nam [[Thiểm Tây]] và chỉ là một công quốc nhỏ, nhưng dần lớn mạnh thành một đế chế; nhà Hán được gọi theo công quốc này, tên của nó lại được đặt từ chữ [[Hán Trung]] (漢中) — phía nam Thiểm Tây hiện nay, vùng bao quanh thành phố Hán Trung. Sự khởi đầu của triều Hán có thể tính từ năm 206 TCN khi nhà Tần sụp đổ và công quốc Hán được thành lập hay từ năm 202 TCN khi vua nước Sở là Hạng Vũ tự sát.
Sự ra đời nhà Hán được lịch sử ghi nhận là có sự góp công rất lớn của 3 người dưới trướng Lưu Bang là: Mưu sĩ [[Trương Lương]], Đại tướng quân [[Hàn Tín]] và Thừa tướng [[Tiêu Hà]]. Đương thời gọi 3 người họ là ''Hán sơ tam kiệt''
Đế quốc mới vẫn giữ lại nhiều phần của cơ cấu hành chính cũ thời [[nhà Tần]] nhưng giảm sự cai trị tập trung đi một chút bằng cách lập ra các công quốc [[chư hầu]] ở một số vùng để có được thuận lợi về chính trị. Sau khi lập nên triều Hán, Hán Cao Tổ chia nước thành nhiều ''tiểu quốc phong kiến'' để thoả mãn một số đồng minh của ông, mặc dù ông đã sắp đặt kế hoạch để trừ khử họ một khi ông đã củng cố xong quyền lực.
Những người kế nghiệp ông từ [[Hán Huệ Đế]] đến [[Hán Cảnh Đế]] đều tìm cách cai trị Trung Quốc bằng cách tổng hợp các biện pháp của [[Pháp gia]] và những tư tưởng triết học [[Đạo giáo]]. Trong "thời Đạo giáo giả hiệu" này, một chính quyền tập trung ổn định cai trị toàn bộ Trung Quốc đã được thành lập thông qua sự hồi sinh của các lĩnh vực nông nghiệp và sự tan rã của "các tiểu quốc phong kiến" sau khi đàn áp cuộc [[Loạn bảy nước]]
==== Cao Hậu chuyên chánh ====
{{Chính|Lã hậu|Loạn chư Lã}}
Năm [[195 TCN]], Lưu Bang qua đời
Vì Hán Huệ Đế kế vị khi còn nhỏ, Lã thái hậu sợ các tướng không phục sẽ làm loạn, do đó bàn mưu với [[Thẩm Tự Cơ]] định giết chết các công thần. Tướng [[Lịch Thương]] ở kinh thành biết mưu đó, khuyên Thẩm Tự Cơ nên can Lã thái hậu không thực hiện ý định này, vì sẽ kích động các tướng đang cầm quân ở ngoài làm phản. Thẩm Tự Cơ vội đi nói với Lã thái hậu. Lã thái hậu nghe ra, bèn thôi ý định đấy. Vì vậy không xảy ra biến cố nào.
Dòng 127:
Trong thời gian điều hành của mình, Lã thái hậu là người nhẫn tâm và cứng rắn, bà cho sát hại [[Thích phu nhân]], sủng phi của Hán Cao Tổ và Triệu vương [[Lưu Như Ý]], con của Thích phu nhân. Đối với những người con khác của Hán Cao Tổ, bà cũng nhiều lần gây sức ép, thậm chí khiến họ phải chết như Triệu vương [[Lưu Hữu (Triệu vương)|Lưu Hữu]], Lương vương [[Lưu Khôi]].
Năm [[188 TCN]], sau nhiều năm làm hoàng đế bù nhìn, Hán Huệ Đế lâm bệnh qua đời khi mới 22 tuổi
[[Trương Yên]], hoàng hậu của Huệ Đế không có con. Theo ''[[Sử ký]]'', Lã thái hậu mang một đứa trẻ giấu kín vào cung, giả cách rằng Trương Yên có chửa và đến ngày sinh ra đứa bé. Khi Huệ Đế mất, đứa trẻ được đưa lên ngôi, sử gọi là [[Hán Tiền Thiếu Đế]]. Bà vẫn nắm quyền điều hành triều chính. Nhiều người con của Cao Tổ hoàng đế bị bà sát hại. Bà phong cho các cháu [[Lã Đài]] làm Lã vương, [[Lã Lộc]] làm Triệu vương, [[Lã Thông]] làm Yên vương.
Năm [[184 TCN]], Hán Tiền Thiếu Đế dần lớn lên, nghe cung nhân nói mẹ mình bị Lã thái hậu giết bèn sinh ra oán hận. Lã thái hậu sợ, bèn bắt giam lại vào cung rồi bỏ đói cho đến chết. Không ai dám ngăn cản, bà bèn lập một người con khác của Huệ đế là Thường Sơn vương Lưu Nghĩa (hay [[Lưu Hồng]]) làm hoàng đế, tiếp tục cầm quyền chính trong triều.
Năm [[180 TCN]], Lã thái hậu mắc bệnh nặng. Biết mình không qua khỏi, bà phong cháu [[Lã Lộc]] làm ''Thượng tướng quân'', thống lĩnh Bắc quân, cho Lã vương Sản làm [[Tướng quốc]], thống lĩnh Nam quân, khống chế lực lượng hộ vệ trong hoàng cung. Sắp xếp xong, bà qua đời, thọ 61 tuổi
Nhưng Lã Lộc và Lã Sản không phải là đối thủ của các đại thần khai quốc nhà Hán như [[Trần Bình]], [[Chu Bột]]. Hai người Trần, Chu đã làm binh biến giết hết các tướng họ Lã mà Lã thái hậu dựng lên để lấy lại thiên hạ cho họ Lưu. Sau khi dẹp loạn họ Lã, các đại thần mời Đại vương [[Lưu Hằng]], con trai thứ của Cao Tổ hoàng đế và [[Bạc phu nhân]].
Dòng 147:
Đối với thuế thân, ông cũng cho giảm từ 120 tiền xuống còn 40 tiền. Với việc lao dịch, trước đây mỗi năm người dân phải đi 1 lần, ông ban chiếu giảm xuống còn 3 năm 1 lần. Mỗi khi có [[thiên tai]], ông thường ra lệnh cho chư hầu không cần tiến cống, lại xoá lệnh bỏ cấm núi đầm, tức là mở cửa những núi đầm của hoàng gia cho nhân dân có thể qua lại hái lượm, đánh bắt trong đó kiếm ăn qua thời mất mùa. Ngoài ra, ông còn nhiều lần hạ chiếu cấm các châu quận cống hiến những kỳ trân dị vật. Trong giai đoạn đầu, nhà Hán đang ở thời kỳ khôi phục kinh tế; tài chính và vật tư đều thiếu thốn. Trước bối cảnh đó, Hán Văn đế chi dùng rất [[tiết kiệm]]. Ông trở thành vị vua tiết kiệm nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc.
Lúc này ở phương Nam, [[Triệu Đà]] lập ra nước [[Nam Việt]], xưng bá một phương, tự xưng
Năm [[157 TCN]], Hán Văn Đế qua đời, thọ 46 tuổi, tại vị được 23 năm
==== Loạn bảy nước ====
{{Chính|Loạn bảy nước}}
Thời kỳ trị vì của Hán Cảnh Đế xảy ra cuộc nội loạn gọi là [[Loạn bảy nước]]
▲Thời kỳ trị vì của Hán Cảnh Đế xảy ra cuộc nội loạn gọi là [[Loạn bảy nước]], ''Thất quốc chi loạn'' (七國之亂). Từ thời Hán Cao Tổ tại vị, đã ra chế độ thiết lập [[chư hầu]], chia đất nước ra nhiều nước nhỏ và phái người trong hoàng tộc đến cai quản. Đến khi Hán Cảnh Đế lên ngôi, ông thấy rằng duy trì chế độ này sẽ gây ra nguy hiểm cho chính quyền nhà Hán, bèn nghe lời [[Tiều Thố]] ra sức thu hẹp quyền lực của các chư hầu.
Tiều Thố từng kiến nghị chia nước Ngô của [[Lưu Tỵ]] - con [[Lưu Trọng]] là anh của Hán Cao Tổ, tức là anh họ của Hán Văn Đế, chú của Hán Cảnh Đế. Tuy nhiên, Cảnh Đế ngại thế nước Ngô đang mạnh sẽ gây xung đột nên chưa thực hiện. Ngô vương Lưu Tỵ là bậc lão thần, càng tỏ ra kiêu căng hống hách, bỏ việc vào chầu thiên tử đã 20 năm. Năm [[154 TCN]], Tiều Thố giữ chức ''Ngự sử đại phu'', tiếp tục kiến nghị việc này, cùng việc cắt bớt đất của các chư hầu khác, theo đó sẽ tước bớt quận [[Đông Hải]] của Sở vương, tước bớt quận [[Dự Chương]] và quận [[Cối Kê]] của Ngô vương Tỵ, tước bớt quận [[Thường Sơn]] của Triệu vương và 6 huyện của [[Giao Tây vương]].
Hàng 160 ⟶ 159:
Khi nghe tin bị tước bớt đất đai, Ngô vương rất tức giận, bèn phát binh làm phản. Để có thêm vây cánh, Lưu Tỵ kêu gọi các chư hầu khác hưởng ứng, với danh nghĩa là diệt trừ gian thần Tiều Thố, "làm sạch chỗ cạnh vua". Sáu nước ủng hộ Ngô vương hợp lại thành 7 nước gồm có:
# Ngô vương [[Lưu Tỵ]]
# Sở vương [[Lưu Mậu]]
# Triệu vương [[Lưu Toại]]
# Tế Nam vương [[Lưu Tịch Quang]]
# Tri Xuyên vương [[Lưu Hiền]]
# Giao Tây vương [[Lưu Ngang]]
# Giao Đông vương [[Lưu Hùng Cừ]]
Ngô vương Tỵ còn hiệu triệu thêm [[Đông Việt]] và [[Mân Việt]] hưởng ứng theo; Triệu vương Toại cũng sai sứ giả đến liên lạc với [[Hung Nô]] để xin phát binh ủng hộ.
Hàng 172 ⟶ 171:
Thế quân 7 nước rất lớn. Trong triều, Tiều Thố và [[Viên Áng]] bất hòa. Viên Áng khuyên Hán Cảnh Đế nên bắt giết Tiều Thố thì quân chư hầu sẽ lui, vì chư hầu chỉ oán một mình Tiều Thố. Hán Cảnh Đế trong tình hình nguy cấp, vội vã nghe theo Viên Áng, bèn sai triệu kiến Tiều Thố rồi bắt giữ và chém ngang lưng ở chợ Đông. Cảnh Đế sai Viên Áng làm Thái thường, lãnh trách nhiệm sứ giả đi báo với Ngô vương việc giết Tiều Thố và phục lại đất đai cho chư hầu. Lúc đó Ngô vương và Sở Vương đang vây đánh nước Lương. Ngô vương không những không lui binh mà bắt luôn Viên Áng, ép phải theo mình làm phản. Viên Áng tìm cơ hội trốn thoát được.
Hán Cảnh Đế bèn ra lệnh cho [[Chu Á Phu]]
Năm [[141 TCN]], Hán Cảnh Đế qua đời, thọ 47 tuổi, ở ngôi được 23 năm
==== Hán Vũ thời đại ====
Hàng 181 ⟶ 180:
[[Hình:漢武帝.jpg|200px|nhỏ|trái|[[Hán Vũ Đế|Vũ Đế]] ]]
[[Hán Vũ Đế]] Lưu Triệt, là con trai thứ 10 của [[Hán Cảnh Đế]] và [[Vương Chí|
[[Hình:汉朝行政区划(繁).png|250px|nhỏ|phải|cương vực Đại Hán thời [[Hán Vũ Đế]] Lưu Triệt]]
Năm [[141 TCN]], sau cái chết của cha, ông bước lên ngôi Hoàng đế và cai trị từ năm [[140 TCN]] đến [[87 TCN]], khoảng 54 năm. Ông là vị [[Hoàng đế]] trị vì lâu nhất trong các Hoàng đế nhà Hán và lâu nhất ở Trung Quốc từ sau đời [[Tần Chiêu Tương vương]] đến trước đời [[Khang Hy]].
Hàng 199 ⟶ 198:
Cuối cùng Hán Vũ Đế tỉnh ngộ ra rằng những chuyện yểm bùa phần nhiều do Giang Sung bày đặt ra, nên bắt giết cả nhà Giang Sung. Vì thương nhớ thái tử, Hán Vũ Đế cho xây [[cung Tử Tư]] (nhớ con).
Hán Vũ Đế lập người con út là [[Lưu Phất Lăng]] làm [[Hoàng thái tử]]. Lúc đó, ông cảm thấy Thái tử còn trẻ mà mình không sống được bao lâu nữa, sợ sau khi mình chết, Phất Lăng kế vị thì [[Câu Dặc phu nhân]]
[[Tháng 3]], năm [[87 TCN]], Hán Vũ Đế mất, Thái tử Lưu Phất Lăng lên ngôi, tức là [[Hán Chiêu Đế]]. Vua mới tuổi còn nhỏ, được Đại tư mã [[Hoắc Quang]] giúp sức.
Hàng 207 ⟶ 206:
[[Hình:HanZhaoDiLiuFuling.jpg|200px|nhỏ|trái|[[Hán Chiêu Đế]] Lưu Phất Lăng]]
[[Hán Chiêu Đế]] Lưu Phất Lăng, con trai út của [[Hán Vũ Đế]] Lưu Triệt kế vị khi chỉ vừa 8 tuổi. [[Câu Dặc phu nhân]] bị bức tử, không có [[Hoàng thái hậu]] [[nhiếp chính]], trong triều được điều hành bởi 3 người là [[Hoắc Quang]], [[Thượng Quang Kiệt]] (上官桀) và [[Kim Nhật
Năm [[80 TCN]], xảy ra sự biến [[
[[Tập tin:Huo guang.jpg|nhỏ|200px|phải|[[Hoắc Quang]], đại thần thời Hán Chiêu Đế.]]
Hàng 217 ⟶ 216:
[[Hình:HanXuanDi.jpg|200px|nhỏ|trái|[[Hán Tuyên Đế]] Lưu Tuân]]
Sau khi bỏ Lưu Hạ, Hoắc Quang thương nghị với các đại thần và cuối cùng quyết định chọn người cháu chắt của Hán Vũ Đế, cháu nội Lệ thái tử [[Lưu Cứ]] là
Năm [[73 TCN]], Hoắc Quang trả lại quyền làm chủ cho Tuyên Đế, tuy nhiên ông vẫn giữ một quyền hành nhất định trong triều. Năm [[68 TCN]], Hoắc Quang mất, dòng họ Hoắc lúc đó vì muốn [[Hoắc Thành Quân]] lên ngôi [[Hoàng hậu]], đã giết chết Cung Ai hoàng hậu [[Hứa Bình Quân]] của Tuyên Đế, khiến Tuyên Đế quyết tâm trừ họ Hoắc. Hơn 1000 người trong gia tộc và liên quan của họ Hoắc bị sát hại.
Hàng 230 ⟶ 229:
[[Hình:Vương Mãng.jpg|200px|nhỏ|phải|[[Vương Mãng]]]]
Nhà Tây Hán dưới thời [[Hán Nguyên Đế]] (49 TCN - 33 TCN), [[Hán Thành Đế]] (33 TCN - 7 TCN), [[Hán Ai Đế]] (7 TCN - 1 TCN), [[Hán Bình Đế]] (1 TCN - 5) đều dần dần trở nên suy yếu. Trong triều đều bị [[ngoại thích]] thao túng. Từ thời Hán Thành Đế, ngoại thích [[họ Vương]], dòng họ của [[Vương Chính Quân|Hiếu Nguyên hoàng hậu]] Vương Chính Quân
[[Vương Mãng]]
Tình hình kinh tế lâm vào nguy ngập ở cuối thời Tây Hán. Vương Mãng vốn tin rằng họ Lưu đã mất [[thiên mệnh]], chiếm lấy quyền lực và muốn quay trở lại thời trước với các cải cách tiền tệ và ruộng đất mạnh mẽ, nhưng những cải cách này còn mang tới kết quả tệ hại hơn. Cuối cùng chính quyền của nhà Tân của ông bị lật đổ bởi [[Khởi nghĩa Lục Lâm]], được phát động bởi chính các hoàng thân nhà Hán.
Cuối cùng, vào năm [[25]], sau nhiều trận binh đao, Lưu Tú
=== Lịch sử Đông Hán ===
Hàng 258 ⟶ 257:
Ông tái lập lại chế độ phong vương cho con cháu ([[Vương quốc]]) và phong hầu cho công thần ([[Hầu quốc]]), chia lại đất đai cho nông dân và các quý tộc. Tầng lớp thượng lưu được ban cấp nhiều ruộng đất. Chính sách này về sau được [[Triệu Khuông Dẫn]], hoàng đế khai quốc [[nhà Tống]] áp dụng. Số người được phong hầu trong vương thất là 125 người, trong các công thần là 365 người. Đối với các công thần, Hán Quang Vũ Đế ban thưởng công lao rất hậu nhưng không để họ can thiệp vào việc triều chính, cũng như không để họ có thực lực, thực quyền làm phát sinh tranh chấp quyền lực giữa thiên tử và chư hầu như đầu thời Tây Hán.
Năm [[57]], Hán Quang Vũ Đế qua đời, hưởng thọ 63 tuổi. Ông ở ngôi tất cả 32 năm
Thái tử Lưu Trang lên nối ngôi, tức là [[Hán Minh Đế]], tiếp tục cai trị nhà Hán trở lại thời gian cực thịnh.
Hàng 275 ⟶ 274:
Khoảng năm [[45]], Hung Nô bị nhiều nạn hạn hán và một nạn châu chấu, súc vật chết nhiều, dân đói. Nước chia làm hai: Bắc sống độc lập, Nam lệ thuộc Hán; Quang Vũ Đế mưu mô gây sự bất hòa giữa hai bên. Nhằm cắt đứt liên hệ giữa Bắc và Nam Hung Nô nhà Đông Hán cho đặt [[Độ Liêu Tướng quân]] xây đồn lũy ở các vùng [[Ngũ Nguyên]], [[Mang Bá]] (đông nam của [[Đạt Lạp Đặc Kỳ]] thuộc [[Nội Mông]]). Qua đời sau Hán Minh Đế làm tuyệt đường giao thông giữa Bắc và Nam Hung Nô, rồi sai [[Đậu Cố]] (竇固) đánh Bắc Hung Nô, chiếm đất làm đồn điền.
Năm [[73]], Đại tướng quân Đậu Cố đã chỉ huy quân Hán tấn công miền Nam Hung Nô. Năm [[88]], Xa kỵ tướng quân [[Đậu Hiến]]
Năm [[97]], con trai Ban Siêu là [[Ban Dũng]] gửi
Đến giữa thế kỷ thứ nhất, trải qua sự thống trị của 3 đời hoàng đế [[Hán Quang Vũ Đế]], [[Hán Minh Đế]] và [[Hán Chương Đế]] thì Vương triều Đông Hán đã từng bước lấy lại sự thịnh vượng của nhà Hán trước đây. Các tướng lĩnh như [[Cảnh Yểm]], [[Đậu Cố]], [[Ban Siêu]] mở mang bờ cõi đến tận [[biển Caspian]] và nước [[Ukraina]] hiện nay, quan hệ trực tiếp với [[Người Parthia|Đế quốc Parthia]] và gửi các đoàn sứ thần đến [[Đế quốc La Mã]] cũng đang thời kỳ hoàng kim tại [[châu Âu]].
Hàng 284 ⟶ 283:
{{Chính|Chương Đức Đậu hoàng hậu|Hòa Hi Đặng hoàng hậu|An Tư Diêm hoàng hậu}}
Từ đời [[Hán Chương Đế]] còn tại vị, họa [[ngoại thích]] của [[hoàng hậu]] đã bắt đầu nhem nhúm khi [[Chương Đức Đậu hoàng hậu]] ra sức tăng cường thế lực dòng
Việc Hoàng thái hậu toàn quyền nhiếp chính xảy ra liên tiếp trong các đời về sau: [[Hán Hòa Đế]] (88 - 105), [[Hán Thương Đế]] (106), [[Hán An Đế]] (106 - 125), [[Hán Thuận Đế]] (125 - 144).
Năm [[88]], [[Hán Hòa Đế]] Lưu Triệu kế vị, Đậu hoàng hậu trở thành Đậu thái hậu, nắm quyền [[nhiếp chính]] trong nhiều năm. [[Đậu Hiến]]
Trong cung, ông sủng ái Quý nhân [[Đặng Tuy]] và lập bà làm [[Hoàng hậu]], vì quá thương yêu bà, ông cho bà can thiệp triều chính. Đặng hoàng hậu là người uyên bác, hiểu lễ nghĩa, không can thiệp quá sâu như Đậu hoàng hậu lúc trước. Năm [[105]], Hán Hòa Đế qua đời, Thái tử Lưu Long (劉隆) kế vị, tức [[Hán Thương Đế]], Đặng hoàng hậu lên làm [[Hoàng thái hậu]] [[nhiếp chính]], lại trọng dụng
Năm [[125]], [[Hán An Đế]] Lưu Hỗ băng hà, Bắc Hương Hầu [[Lưu Ý]] được dòng
Năm [[132]], Thuận Đế lấy vợ là [[
Năm [[141]], Lương Thượng chết, Hán Thuận Đế đưa con ông ta là [[Lương Ký]] lên thay, phong làm
==== Lương Ký lộng hành ====
{{Chính|Lương Ký}}
Đại tướng quân [[Lương Ký]]
Năm [[144]], Hán Thuận Đế chết, Lương hoàng hậu trở thành [[Hoàng thái hậu]], đưa Thái tử Lưu Bỉnh lên kế vị, tức
Hán Xung Đế làm vua chỉ được một thời gian thì chết yểu. Lương thái hậu ngay lập tức cho phát tang, bố cáo toàn thiên hạ. Bà triệu tập cháu 4 đời của [[Hán Chương Đế]] là Thanh Hà vương [[Lưu Toán]] (劉蒜) cùng [[Hán Chất Đế|Lưu Toản]]
Quần thần lại dấy lên kiến nghị, đòi lập Lưu Toán làm Hoàng đế. Nhưng Lương Ký lại kiến nghị với Lương thái hậu, lập Ngô Lễ hầu [[Lưu Chí]] làm Hoàng đế, người đã hứa hôn với [[Lương Nữ Oánh]], em gái bà và Lương Ký. Lưu Chí lên ngôi trở thành
Năm 147, Hán Hoàn Đế lập [[Lương Nữ Oánh]], em gái Lương thái hậu làm Hoàng hậu. Trong triều, Lương Ký ngày càng lộng quyền, đổ tội cho Lý Cổ và Lưu Toán có ý mưu phản, khiến Lưu Toán phải tự sát. Lý Cổ cùng nhiều đại thần trong triều bị xử tử.
Sau khi không còn thế lực chống đối, Lương Ký tha hồ vơ vét của cải của dân chúng, tài sản có đến 4 tỷ đồng, chiếm một nửa ngân khố của nhà nước, những người bình dân cũng bị Lương Ký bắt làm nô tỳ.
Năm [[159]], Lương Thái hậu chết, phe cánh họ Lương của Lương Ký bị [[Hán Hoàn Đế]] diệt trừ, tài sản bị sung công, dân chúng nghe tin đều vui mừng. Việc điều hành quốc gia bắt đầu rơi vào tay tầng lớp hoạn quan sau khi Hoàn Đế phải dựa vào nhóm này để trừ khử quyền thần Lương Ký. Các hoạn quan gồm [[
==== Hoạn quan chuyên quyền ====
Trong thời gian nắm quyền, hoạn quan đã phát động hai đợt thanh trừng lớn, qua đó bức hại và loại trừ hầu hết các bậc trung thần hoặc những người không cùng phe cánh. Lịch sử gọi sự kiện này là ''Họa đảng cố'' (黨锢之祸). Triều đình Đông Hán thời kỳ này trở nên vô cùng hủ bại, việc mua quan bán tước được định giá công khai.
Năm [[168]], Hán Hoàn Đế qua đời, [[
Sự bành trướng thế lực của các bè phái cũng dẫn đến việc lôi kéo nhân tài về phía mình để củng cố lực lượng, tầng lớp trí thức bị chia rẽ rõ rệt. Một số a dua với ngoại thích hoặc hoạn quan theo đuổi quyền lợi phe phái được gọi là tầng lớp "trọc lưu". Đối lại với lớp trọc lưu là những phần tử nho học chân chính ủng hộ vương quyền thực sự của hoàng đế, được gọi là phái "Thanh lưu". Những lãnh tụ của phái Thanh lưu có thể kể ra đây như [[Lý Ưng]], [[Trần
Chiến tranh xảy ra giữa các hoạn quan và phái Khổng giáo về sự ảnh hưởng của một vị phù thuỷ Đạo giáo. Vị phù thuỷ [[Đạo giáo]] tiên đoán rằng một lòng khoan dung khắp nơi sắp đến và sai con mình đi giết một người nào đó để bày tỏ sự tin tưởng vào sự tiên tri đó. Con trai của ông là người hầu cận của các hoạn quan, và các hoạn quan đã ngăn chặn sự hành hình của vị phù thuỷ. Tuy nhiên vị quan cai trị vẫn hành hình con vị phù thuỷ. Các hoạn quan buộc tội vị quan cai trị vi phạm vào điều luật của đế chế và âm mưu với sinh viên và những bậc trí thức để thành lập một liên minh bất hợp pháp nhằm chống lại chính quyền. Các hoạn quan có được lệnh từ Hán Linh Đế, ra lệnh bắt giữ các sinh viên dám biểu tình và dám tìm cách khấn nguyện lên hoàng đế. Và nhanh chóng, họ giết nhiều sinh viên trong ngục.
Hàng 331 ⟶ 330:
{{chính|Khởi nghĩa Hoàng Cân}}
Một người theo Đạo giáo tên là [[Trương Giác]], quê ở quận [[Cự Lộc]] ([[Ký Châu]], [[Hà Bắc (Trung Quốc)|Hà Bắc]]) tự cho mình là "
Hoảng sợ trước sự đấu tranh của cuộc nổi loạn, chính phủ Ðông Hán và các tập đoàn [[quân phiệt]] ở các địa phương đã huy động toàn bộ lực lượng để đàn áp. Chỉ trong vòng 10 tháng Trương Giác đã bị đánh bại. Dư đảng quân Hoàng Cân còn ở khắp nơi hoành hành quấy nhiễu, quân triều đình qua cuộc chiến cũng bị thiệt hại nặng nề nên không đủ khả năng giúp các địa phương trấn áp triệt để. Tình thế ấy khiến cho Hoàng đế nhà Hán có một quyết sách rất mạo hiểm là mau chóng khuếch đại quyền hạn cho các thứ sử, cho phép họ thành lập quân đội riêng để tự dẹp loạn, đổi chức [[thứ sử]] một số châu thành chức [[châu mục]] (州牧). Chức mục bắt đầu ra đời từ đó, bấy giờ là năm [[188]]. Các châu mục mau chóng có quyền hạn lớn, lực lượng độc lập, triều đình cũng nhanh chóng mất đi quyền chỉ huy khống chế các địa phương, tình trạng quần hùng cát cứ đã manh nha xuất hiện.
Năm [[189]], [[Hán Linh Đế]] qua đời, con trai của [[Linh Tư Hà Hoàng hậu|Hà hoàng hậu]] là Lưu Biện lên kế vị, tức [[Hán Thiếu Đế]]. Đại tướng quân [[Hà Tiến]]
Đương thời, Đại Hán bị phân chia thành các thế lực: [[Tào Tháo]]
Hán Hiến Đế khôi phục chức vụ [[Thừa tướng]], phong cho Tào Tháo chức vị này. Từ đó Tào Tháo ngày càng quyền thế trong triều. Ông quyết định Nam chinh, thu phục [[Giang Đông]] nhưng bị đại bại trong [[trận Xích Bích]], bị liên minh Lưu - Tôn của [[Lưu Bị]]
Năm [[220]], Tào Tháo qua đời, con của ông là [[Tào Phi]]
== Nỗ lực trung hưng của Thục Hán ==
Hàng 357 ⟶ 356:
== Mở rộng lãnh thổ ==
=== Người Tây Nam Di và Đông Nam Di ===
Tây Hán chinh phạt các tộc người Tây Nam Di và Đông Nam Di (phía tây và tây nam [[Tứ Xuyên]], nam [[Cam Túc]], tây [[Quý Châu]], [[Vân Nam]]) đặt các quận [[
Để mở rộng quan hệ thương mại mới hình thành với [[Myanma|Miến Điện]] và [[Ấn Độ]], Hán Vũ Đế còn giao cho [[Đường Mông]] nhiệm vụ bảo trì và mở rộng Ngũ xích đạo, đổi tên nó thành "Tây nam Di đạo".
Vào thời gian đó, kỹ thuật canh tác trong nông nghiệp ở Vân Nam đã được cải thiện rõ rệt. Người dân địa phương sử dụng các công cụ và cày bừa bằng đồng thau cũng như chăn thả nhiều loại [[gia súc]], như [[trâu]], [[bò]], [[ngựa]], [[cừu nhà|cừu]], [[dê]], [[chi Lợn|lợn]] và [[chó]]. Các nhà nhân loại học đã xác định là những người này có quan hệ họ hàng gần với những người mà ngày nay gọi là người Thái. Họ sinh sống theo bộ tộc, đôi khi được những [[người Hán]] bị lưu đày đứng đầu.
=== Nước Dạ Lang ===
Đầu đời nhà Hán có một nước [[H'Mông|Miêu]] ở về phía nam tên gọi là [[Dạ Lang]] chiếm một phần tỉnh [[Quảng Tây]] và phần lớn tỉnh Quý Châu hiện nay. Nước Dạ Lang giáp quận [[Ba Thục]] và một mặt thì giáp [[hồ Động Đình]] về phía tây giáp [[
[[Thế kỷ 2|Thế kỷ thứ 2]] [[Công Nguyên|TCN]], nhà sử học [[Tư Mã Thiên]] đi theo sứ giả của nhà Hán đến thực thi sứ mệnh ngoại giao tại các chính quyền dân tộc thiểu số ở miền Tây Nam [[Tên gọi Trung Quốc|Trung Hoa]]. Trong " Sử ký -Tây Nam Di Chí" của Tư Mã Thiên ghi lại rằng, trong các bộ tộc Tây Nam, Dạ Lang có thế lực hùng mạnh nhất, có 100 nghìn lực lượng tinh nhuệ, tàu bè của người Dạ Lang đi lại trên mặt sông, quanh cảnh hết sức tấp nập. Lúc đó Đại Hán thống trị phần lớn khu vực [[Trung Nguyên]], Dạ Lang nằm trong miền núi xa xôi hẻo lánh.
Dòng 369:
Năm [[136 TCN]], Hán Vũ Đế cử [[Đường Mông]] làm Lang trung tướng dẫn 1000 binh sĩ và mấy vạn dân đem theo lương thực và công cụ sản xuất xuất phát từ Ba quận vượt qua [[Phù Quan]] ([[Hợp Giang]], Tứ Xuyên) đến Dạ Lang. Đường Mông tuyên truyền với Dạ Lang hầu Đa Đồng về sức mạnh của Hán triều, ban tặng của cải để Dạ Lang hầu cho phép Đường Mông đặt cơ quan quản lý ở đó và cử con trai Dạ Lang hầu làm Lệnh (tương đương huyện lệnh).
Năm [[130 TCN]], Hán Vũ Đế xuống lệnh đặt thành quận cả khu vực nói trên và chọn
Sau khi tiêu diệt [[Nam Việt]], nhà Hán cho 8 hiệu úy chỉ huy các tội nhân tấn công [[
Nước Dạ Lang đã quy phục nhà Hán năm [[111 TCN]] và gọi là quận
=== Tây Vực ===
Dòng 387:
Sau đó, Ban Siêu tới nước [[Vu Điền]] (Khetan) giết một mụ phù thủy quân sư của Nhà vua vì mụ dám nhục mạ sứ giả của nhà Hán, đòi sứ giả phải giết một con ngựa vàng mõm đen rồi hai bên mới thương thuyết. Vua Vu Điền thấy vậy cũng hoảng như Vua Thiện Thiện và vội xin qui phục nhà Hán, giết hết các sứ giả Hung Nô ở trong nước.
Nhờ phương pháp đó mà Ban Siêu thành công mĩ mãn: Nam Hung Nô và trên 50 nước nhỏ ở Tây Vực đều dâng biểu triều cống với nhà Hán. Còn Bắc Hung Nô thì bị [[Đậu Hiến]] đánh đuổi qua phía tây. Năm 69 tuổi, sau 30 năm hoạt động ở Tây Vực, Ban Siêu về nước, được Triều đình phong tước
Năm [[74]], sau khi đánh bại [[Hung Nô]], một cơ quan quản lý người Hung nô được lập ra gọi là [[Tây Vực Đô hộ phủ]] và bị triệt thoái năm 107. Nhà Đông Hán đặt chức Hiệu úy Mậu Kỷ là chức quan võ cao cấp trông coi và giữ gìn vùng Tây Vực. Sau khi Ban Siêu về nước người kế nhiệm là [[Nhâm Thượng]] không tiếp thu kinh nghiệm của ông nên dẫn đến sai lầm trong việc cai trị.
Năm [[107]], Tây Vực Đô hộ phủ phải triệt thoái. Quân tư mã [[Ban Dũng]] và [[Ban Hùng]] phụng mệnh Nhà vua đón tiếp đô hộ và binh sĩ trú đóng ở Tây Vực trở về. Việc nhà Đông Hán triệt thoái Tây Vực Đô hộ phủ tạo cơ hội cho lực lượng tàn dư của Bắc Hung Nô tại núi Antai nổi dậy chiếm lĩnh [[Y Ngô]], cướp bóc vùng Hà Tây. Một số nước Tây Vực lại đề nghị nhà Đông Hán bảo hộ. [[Đặng
Cuốn "[[Tây Vực trường sử]]" (Sử vùng Tây Vực) do Ban Dũng thực hiện một thời gian ngắn sau năm 127, dựa trên một phần những ghi chép của cha ông là Ban Siêu, là nguồn tư liệu chính về văn hóa và kinh tế xã hội của Tây Vực trong tập 88 cuốn sách này.
Nhà Đông Hán còn giữ được uy quyền ở Tây Vực trong một thời gian nữa, rồi khi suy nhược vì nạn ngoại thích và hoạn quan thì không kiểm soát được miền đó nữa. Nhưng công của những nhà thám hiểm như Ban Siêu, Ban Dũng không phải là vô ích. Nhờ những người đó mà [[
=== Đất Cùng, Trách ===
Quân Hán lại giết chết các thủ lĩnh của Cùng làm cho Trách hầu và [[Nhiễm Manh]] sợ hãi xin thần phục, bằng lòng cho nhà Hán đặt quận Việt
=== Đất Điền ===
Dòng 407:
== Ngoại giao ==
=== Các nước phía nam Đông dương và nước Oa ===
Trong phần
Từ
Năm [[69]], Quốc vương [[
Đời Hán Minh Đế, các bộ [[Bạch Lang]], [[Bàn Mộc]] phía tây quận Văn Sơn gồm 130 vạn hộ, sáu triệu nhân khẩu, tình nguyện quy thuộc nhà Hán.
Dòng 419:
Năm [[87]], [[nước An Tức]] triều cống sư tử cho Trung Quốc. Về sau vào niên hiệu Dực Niên, Quốc vương nước An Tức phái sứ giả mang lễ vật triều cống sang Trung Quốc, mở đầu cho sự giao thương giữa hai nước. Năm [[101]], nước An Tức lại thường mang lễ vật sang triều cống cho triều Đông Hán.
Năm [[57]], quốc vương nước Na (Nụy Vương) [[Nhật Bản]] tiến cống Quang Vũ Đế ở [[Lạc Dương]] và nhận ấn thụ ''Hán Nụy Nô Quốc Vương'' (Vua nước Na đất Wa thuộc Hán). Cũng theo ''[[Hậu Hán thư]]'', năm [[180]], các tiểu quốc
=== Các dân tộc ở miền Nam ===
Dòng 426:
[[Người Điền]]: Vào thời kỳ đồ đá mới, ở đây đã có sự định cư của con người trong khu vực [[hồ Điền Trì]]. Những người nguyên thủy này sử dụng các công cụ bằng đá và đã xây dựng được các công trình đơn giản bằng gỗ.
Vào khoảng thế kỷ 3 TCN, khu vực trung tâm của Vân Nam, xung quanh [[Côn Minh]] ngày nay đã được biết đến như là Điền. Một viên tướng [[sở (nước)|nước Sở]] là [[Trang
Người Điền ở xung quanh hồ Điền đã khai thông ao hồ để tưới tiêu. Người Ai lao ở giữa vùng sông Nộ và sông Lan thương biết dệt một thứ vải bằng gai mịn như gấm. Ở đó họ đá sản xuất đồng, sắt, chì, thiếc và thủy tinh. Nhà Đông Hán đã đặt quận huyện tại khu vực này. Người Hán cũng thường quan hệ giao lưu với người Điền và người Ai Lao. Giữa thế kỷ thứ hai, [[Doãn Trân]] người vùng [[Tang Ca]] (Quý Châu) có đến Lạc dương học kinh sách rồi trở về quê dạy học có ảnh hưởng lớn đối với văn hóa trong vùng.
Dòng 437:
Mục đích của chính sách cai trị trực tiếp này là thu thuế và nhận phẩm vật triều cống (vàng, bạc, sừng tê giác, ngà voi, móng chim ưng, hương liệu, vải lụa) càng nhiều càng tốt. Thuế và phẩm vật triều cống do những lãnh chúa địa phương thay mặt nhà Hán thu của dân. Như vậy nhà Hán vừa có thu nhập vừa không hao tốn ngân quỹ, lại duy trì được ảnh hưởng trên vùng đất đó, bù lại lãnh chúa địa phương được sắc phong và được bảo vệ khi bị tấn công.
Theo sử liệu cổ của Trung Hoa (''[[Hậu Hán thư]]'',
Năm [[136]], khoảng 1.000 dân Tượng Lâm nổi lên chống lại sự cai trị của nhà Hán và đánh chiếm huyện Tượng Lâm, họ đốt thành và giết trưởng lại (huyện trưởng). Năm sau thứ sử [[Giao Chỉ]] là [[Phàn Diễn]] phải điều hơn 10.000 binh sĩ từ hai quận Giao Chỉ và [[Cửu Chân]] xuống đàn áp nhưng thất bại. Thay vì đi dẹp loạn, đoàn quân này lại phối hợp với dân quân Tượng Lâm chống lại và chiếm đóng một số thành quách khác trong quận, quan quân Đông Hán phải rút lui khỏi huyện Tượng Lâm.
Năm [[138]], [[Giả Xương]], quan thị ngự sử nhà Hán đi sứ phía nam, đã cùng với các quan thái thú trong quận Nhật Nam gom quân dẹp những cuộc nổi loạn ở huyện Tượng Lâm. Sau gần một năm, tất cả đều thất bại, và họ còn bị quân địa phương bao vây hơn cả năm trời. Từ đó nhà Hán mất tin tưởng ở đám quan quân địa phương và chỉ tin dùng quan quân từ Trung Hoa đưa xuống. Năm sau [[Hán Thuận Đế]] sai tướng
Những kế sách của Lý Cố là:
Dòng 453:
Để thực hiện mưu kế này, nhà Hán phong [[Trương Kiều]] làm thứ sử Giao Chỉ và [[Chúc Lương]] làm thái thú Cửu Chân; cả hai có nhiệm vụ thu thuế và nhận phẩm vật từ những quan lại được nhà Hán tấn phong. Trương Kiều đã thu phục được hàng chục ngàn dân thường của Nhật Nam và Tượng Lâm quy thuận Hán triều.
Năm [[144]], dân quận Nhật Nam và huyện Tượng Lâm lại nổi lên chống lại ách cai trị của nhà Hán, nhưng bị thứ sử [[Hạ Phương]] đánh bại. Năm 157, [[Chu Đạt]] cùng với dân chúng Cửu Chân nổi lên giết huyện lệnh Cự Phong và thái thú Nghê Thức chiếm quyền lãnh đạo. Sự kết hợp tự nhiên giữa dân chúng hai quận Cửu Chân và Nhật Nam gây nhiều bối rối cho các quan quân cai trị. Dưới sự chỉ huy của đô úy quận Cửu Chân là Ngụy Lãng, quân Hán phản công quyết liệt, giết hơn 2.000 dân Cửu Chân, phe nổi loạn phải chạy xuống phía nam chiếm quận [[Nhật Nam]] và chống trả lại. Trong ba năm, từ 157 đến 160, quân Tượng Lâm (khoảng 20.000 người) tiến lên đánh quân Hán và chiếm nhiều huyện khác của Nhật Nam. Vài năm sau, năm 178, Lương Long cầm đầu cuộc khởi nghĩa chống lại quân Hán, chiếm được nhiều vùng đất từ Giao Chỉ đến Hợp Phố và từ Cửu Chân đến Nhật Nam; năm 181 Hán vương cử Lã Đại mang quân sang đánh dẹp.
Đến đời
=== Người Khương nổi dậy ===
[[Người Khương]] ở [[Lương Châu]] (vùng [[Cam Túc]], [[Thanh Hải]]) sinh sống bằng nghề chăn nuôi là một dân tộc thiện chiến, họ xem việc chết trận là một vinh dự. Thời Tây Hán đã có nhiều người Hán đến định cư cùng với người Khương, ở [[Thanh Hải (Trung Quốc)|Thanh Hải]], [[Cam Túc]], [[Thiểm Tây]], người Khương ở cùng với [[người Hán]].
Năm [[106]], người Khương sống ở phía tây [[Ngọc Môn Quan]] (phía tây bắc [[Đôn Hoàng]], Cam Túc) nổi loạn, xuất quân xâm phạm quận Vũ Đô. Năm 107 nhà Đông Hán bắt người Khương đi đánh Tây Vực, người Khương không muốn xa lìa quê hương nên khi mới ra đi họ đã rủ nhau trốn về. Quan lại Triều đình liền bắt bớ và đốt phá nhà cửa của họ. Năm [[110]], người Khương phẫn nộ và vùng lên nổi dậy, lấy gậy gộc làm vũ khí, lấy ván làm khiên chống lại Quân đội Đông Hán, giết chết nhiều quan lại và địa chủ Hán. Triều đình và quan lại các châu huyện đều sợ người Khương và bắt buộc dân Hán phải dời vào nội địa nhưng người Hán cũng không chịu đi, sợ khi vào nội địa đời sống không được đảm bảo. Quân đội Đông Hán liền dỡ nhà cửa và đốt lương thực của dân Hán. Bất đắc dĩ, người Hán phải liên hiệp với người Khương chống lại hành động áp bức của Triều đình. Năm 121, người Khương và
Chiến tranh giữa người Khương với nhà Đông Hán kéo dài hơn 60 năm, cuối cùng nhà Đông Hán cũng dập tắt được cuộc nổi dậy nhưng hao tổn nhiều nhân lực, quân phí lên đến ba bốn chục tỷ lạng, ngân sách bị thâm hụt.
|