Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Văn minh cổ Babylon”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n replaced: tam giác → tam giác using AWB
Tạo với bản dịch của trang “Babylonia
Dòng 1:
'''Văn minh cổ Babylon''' là một vùng văn hóa cổ ở trung tâm phía nam [[Lưỡng Hà]] (ngày nay là [[Iraq]]), với thủ đô là [[Babylon]]. Nền văn minh này xuất hiện khi [[Hammurabi]] thành lập đế chế tách khỏi lãnh thổ của [[đế chế Akkadia]] trước đó. Người Babylon thời cổ đã giữ lại tiếng Akkad và xem là ngôn ngữ chính thức, mặc dù những người Amorites - kẻ sáng lập ra nền văn minh này, không phải là người Akkad bản địa. Các phong tục văn hóa truyền thống của người Sumer được giữ lại, kế thừa và dần dần đóng một vai trò quan trọng trong việc đưa nền văn minh này trở thành một trung tâm quan trọng, không những với người Babylon mà còn đối với cả thế giới thời kỳ đó.
{{Hộp thông tin quốc gia
Các tài liệu đầu tiên có viết về thành phố này được các nhà khảo cổ học phát hiện trong một di tích (không rõ di tích nào) có từ thời Sargon xứ Akkad, khoảng thế kỷ XXIII TCN. Babylon lúc đó đơn thuần chỉ là một trung tâm văn hóa, tôn giáo, chứ chưa phải là một nhà nước độc lập. Khi Đế chế Akkad đã thống nhất vùng đất này, Babylon thực chất là vùng bán độc lập, giành được quyền tự trị tạm thời. Dưới sự thống trị của Akkad, Gutian và đế quốc Ur (triều đại III), người dân Babylon đã nhiều lần khởi nghĩa chống lại người ngoại tộc, và cuối cùng năm 1894, người Amorites, một nhánh của tộc người Semites đã đánh bại ngoại tộc, giành thắng lợi và thành lập nhà nước Babylon rộng lớn ở khắp miền Nam Lưỡng Hà. Trong thời gian vương quốc Babylon ra đời, người Assyria ở phía bắc (thượng du sông Tigris) dưới sự lãnh đạo của Erishum cũng giành được độc lập và thành lập vương quốc Assyria (1905 TCN) với đô thành đầu tiên, thành Ashur. Sau khi Assyria thành lập ít lâu, các quốc gia khác của người Amorites cũng nối tiếp nhau thành lập như Isin, Larsa sau sự kiện Shamshi-Adad I (1813 - 1791 TCN) cướp ngôi vua trước đó (1813 TCN) và thành lập đế chế khá ngắn ngủi. Triều đại đầu tiên của người Amorites đã xây dựng thành phố Babylon, nơi mà sau này trở thành đế quốc Cổ Babylon, một trong những đế quốc cổ nhất trong lịch sử thế giới.
| native_name = {{native name|akk|{{Script/Cuneiform|akk|𒆳𒆍𒀭𒊏𒆠}}}}<br /><span style="font-weight: normal">{{transl|akk|māt Akkadī}}</span>
| religion = [[Tôn giáo Babylon]]
| HDI =
| GDP_PPP_year =
| GDP_PPP =
| area_rank =
| area_km2 =
| demonym =
| conventional_long_name = Babylonia
| today = {{plainlist|
*{{flag|Iraq}}
*{{flag|Syria}}}}
| title_leader =
| currency =
| common_languages = [[Tiếng Akkad]]<br>[[Tiếng Aram]]
| common_name = Vương quốc Babylon
| official_languages = {{plainlist|
* [[Tiếng Akkad]]
* [[Tiếng Sumer]]
* [[Tiếng Aram]]}}
| capital = [[Babylon]]
| image_map_caption = Đế quốc Babylon mở rộng vào đầu và cuối thời trị vì của Hammurabi
| image_map_alt =
| image_map = Hammurabi's Babylonia 1.svg
| s2 =
| s1 = Đế quốc Achaemenes
| p2 = Đế quốc Akkad
| p1 = Sumer
| year_end = &nbsp;539 TCN
| year_start = 1895 TCN&nbsp;
| HDI_year =
}}
'''Văn minh cổ Babylon''' hay '''Babylonia''' ({{IPAc-en|ˌ|b|æ|b|ɪ|ˈ|l|oʊ|n|i|ə
}}) là một [[nhà nước]] [[Thời kỳ cổ đại|cổ]] nói [[tiếng Akkad]] và là một vùng văn hóa có trung tâm tại trung-nam [[Lưỡng Hà]] (nay là [[Iraq]] và [[Syria]]).
 
Ban đầu là một tiểu quốc do người [[Amorites|Amorite]] cai trị thành lập vào năm 1894 TCN, bao gồm thành [[Babylon]],<ref>F. Leo Oppenheim, ''Ancient Mesopotamia''</ref> và là một thành thị nhỏ dưới thời [[Đế quốc Akkad|Đế chế Akkad]] (2335-2154 TCN), nhưng dưới triều đại [[Amorites|Amorite]] của [[Hammurabi]] trong nửa đầu thế kỷ 18 TCN, nó được mở rộng đáng kể, thâu tóm các vùng lãnh thổ xung quanh, tạo nên [[Đế quốc Cổ Babylon]]. Từ thời Hammurabi trở đi, Babylonia được gọi là "đất nước của người Akkad" (''Māt Akkadī'' trong tiếng Akkad), với chủ ý liên hệ đến vinh quang trong quá khứ của Đế chế Akkad.<ref>[http://www.aliraqi.org/forums/showthread.php?t=69813 Aliraqi - Babylonian Empire]</ref><ref>[https://www.livius.org/articles/place/babylonian-empire/ Babylonian Empire - Livius]</ref> Đế quốc Cổ Babylon nhanh chóng sụp đổ sau cái chết của Hammurabi và lại trở thành một vương quốc nhỏ. Babylon lần lượt bị ngoại bang như [[người Kassite]], [[Elam]] xâm chiếm và cai trị, trải qua các giai đoạn bị [[Assyria]] gây ảnh hưởng và đô hộ, cho đến khi người Chaldea thành lập [[Đế quốc Tân Babylon|Đế chế Tân Babylon]] năm 605 TCN, đưa Babylon một lần nữa trở thành bá chủ của phần lớn thế giới văn minh.{{Sfn|Chisholm|1911|p=105}} Sau giai đoạn cực thịnh, Đế quốc Babylon dần tan rã cho đến năm 539 TCN, [[Cyrus đại đế]] chinh phục Babylon và sáp nhập vào [[Đế quốc Achaemenes]].
== Văn minh cổ Babylon (1894 TCN đến 1595 TCN) ==
 
Giống như Assyria, Babylon sử dụng ngôn ngữ viết Akkad (ngôn ngữ của dân cư bản địa) làm ngôn ngữ chính thức, mặc dù những người cai trị Amorite nói tiếng [[Nhóm ngôn ngữ Semit Tây Bắc|Tây Bắc Semit]] và triều đại [[Người Kassite|Kassite]] kế tiếp không phải là người Lưỡng Hà bản địa. [[Tiếng Sumer]] vẫn được sử dụng cho mục đích tôn giáo, nhưng trong tiếng nói hàng ngày đã hoàn toàn bị thay thế bởi tiếng Akkad. Các truyền thống Akkad và Sumer lâu đời đóng một vai trò quan trọng trong văn hóa Babylon và Assyria. Trong thời kỳ bị Assyria đô hộ (911-619 TCN), tiếng Aram Lưỡng Hà bắt đầu thay thế tiếng Akkad, trở thành ngôn ngữ nói chung của dân chúng của cả Assyria và Babylon. Khu vực này đóng vai trò là một trung tâm văn hóa quan trọng ở Tây Á, ngay cả dưới thời kì lâu dài bị ngoại bang đô hộ.
Thời kỳ Cổ Babylon
 
== Lịch sử ==
Trong thiên niên kỷ thứ III TCN, sau khi lật đổ triều đại Ur, hai tộc [[người Elam]] và [[người Amorites]] đã dần liên kết, liên minh với nhau về văn hóa. Các ảnh hưởng của hai tộc người này thể hiện rất rõ trong nhiều lĩnh vực, từ việc mở rộng vốn từ vựng, cấu trúc ngữ pháp, hình thái học và âm vị học. Cuối thiên niên kỷ thứ II TCN, tiếng Amorites (có tài liệu nói là [[tiếng Akkad]]) dần dần thay thế [[tiếng Sumer]] và trở thành ngôn ngữ chính của vùng đất này.
 
=== Thời kỳ Sumer-Akkad tiền Babylon ===
Vương triều thứ nhất, thời kỳ Amorites
Lưỡng Hà đã có một lịch sử lâu dài trước thời Babylon, với nền văn minh [[Sumer]] nổi lên từ khoảng năm 4000 TCN<ref>Crawford, Harriet E. W. (2004). ''Sumer and the Sumerians'' (2nd ed.). Cambridge University Press. ISBN <bdi>9780521533386</bdi> </ref> và những người nói tiếng Akkad xuất hiện vào thiên niên kỉ thứ 3 TCN.<ref>Roux, Georges (1993). ''Ancient Iraq''. Harmondsworth: Penguin. ISBN <bdi>978-0-14-012523-8</bdi>.</ref>
<sup class="noprint Inline-Template Template-Fact" data-ve-ignore="true" style="white-space:nowrap;">&#x5B; ''<nowiki><span title="This claim needs references to reliable sources. (July 2018)">cần dẫn nguồn</span></nowiki>'' &#x5D;</sup>
Trong thiên niên kỷ thứ 3 TCN, đã có sự cộng sinh văn hóa rất mật thiết giữa người Sumer và người Akkad bao gồm việc sử dụng phổ biến [[Đa ngôn ngữ|song ngữ]].<ref name="Deutscher2">{{Harvard citation no brackets|Deutscher|2007}}</ref> Tiếng Akkad dần thay thế tiếng Sumer thành ngôn ngữ nói của Lưỡng Hà vào khoảng giữa thiên niên kỷ thứ 3 và thứ 2 TCN (thời điểm chính xác vẫn đang được tranh luận),<ref name="woods2">{{Harvard citation no brackets|Woods|2006}}</ref> nhưng tiếng Sumer tiếp tục được sử dụng như một thứ ngôn ngữ linh thiêng cho nghi lễ, văn chương và khoa học ở Lưỡng Hà cho đến thế kỷ 1 CN.
 
Thời kỳ Akkad thường được xác định niên đại từ năm 2350-2170 TCN theo Niên đại trung, hay 2230-2050 TCN theo Niên đại ngắn.<ref name="pruss20042">{{Harvard citation no brackets|Pruß|2004}}</ref> Khoảng năm 2334 TCN, [[Sargon của Akkad|Sargon]] trở thành vua của người Akkad ở miền bắc Lưỡng Hà và tiến hành chinh phục một khu vực trải dài từ [[Vịnh Ba Tư]] cho đến [[Syria]] ngày nay. Thành Babylon được đề cập đến sớm nhất trong một [[phiến đất sét]] từ triều đại [[Sargon của Akkad]] (2334-2279 TCN), có niên đại khoảng thế kỷ 23 TCN. Babylon chỉ đơn thuần là một trung tâm tôn giáo và văn hóa vào thời điểm này chứ không phải là một quốc gia độc lập hay một thành phố lớn. Đế chế Akkad cuối cùng bị người Guti từ [[Dãy núi Zagros|dãy Zagros]] xâm chiếm.
Các vị vua vương triều thứ nhất:
<sup class="noprint Inline-Template Template-Fact" data-ve-ignore="true" style="white-space:nowrap;">&#x5B; ''<nowiki><span title="This claim needs references to reliable sources. (July 2018)">cần dẫn nguồn</span></nowiki>'' &#x5D;</sup>
# Sumu-abum: 1894 — 1881 TCN
# Sumu-la-El: 1880 — 1844 TCN
# Sabium or Sabum: 1844 — 1830 TCN
# Apil-Sin: 1829 — 1811 TCN
# Sin-muballit: 1811 — 1792 TCN
# Hammurabi: 1792 — 1750 TCN
# Samsu-iluna: 1750 — 1712 TCN
# Abi-eshuh: 1711 — 1684 TCN
# Ammi-ditana: 1683 — 1640 TCN
# Ammisaduqa: 1640 - 1626 TCN
# Samsu-Ditana: 1626 - 1595 TCN
 
Cuối cùng, người Guti bị lật đổ và [[Ur (thành phố)|Ur]] thống nhất khu vực với [[Triều đại thứ ba của Ur|Đế chế Ur III]] (2112-2004 TCN). Khoảng năm 2000 TCN, sức mạnh của Ur suy yếu dần và bị người [[Amorites|Amorite]] thôn tính phần lớn diện tích. Đối thủ lâu đời của Sumer ở phía đông, người Elam, cuối cùng đã lật đổ Ur. Điều này đánh dấu sự kết thúc của các đế chế cai trị thành bang ở Lưỡng Hà và chấm dứt sự thống trị của người Sumer, nhưng các nhà cai trị sau đó đã tiếp nhận và kế thừa phần lớn nền văn minh Sumer.
Nhà nước độc lập Babylon được thành lập bởi vị thủ lĩnh người Amorites là Sumuabum vào năm 1894 TCN. Ban đầu. Cổ Babylon không có gì nổi bật, và bị lu mở bởi một loạt các nước phát triển hơn trước đó, Larsa, Isin, Elam va Assyria. Babylon vẫn tiếp tục là một vương quốc trẻ cho đến thời kỳ cai trị của vị vua thứ sáu của nó, vua Hammurabi, con trai của Sinmuballit (1792 - 1750 TCN). Ông là một người cai trị giỏi, thiết lập bộ máy chính quyền quan liêu, thu nhiều thứ thuế và nhanh chóng lập lại sự ổn định sau thời kỳ hỗn loạn trước đó. Chính nhờ ông mà vương quốc Cổ Babylon trở thành cường quốc, trung tâm văn hóa - chính trị lớn nhất ở vùng Mesopotamia. Một trong những thành tựu quan trọng nhất của triều đại này, đó là việc xuất hiện một bộ luật mới có tên "Luật Hammurabi", được vua ban hành sau khi đánh bại người Elam ở Larsa, Isin. Năm 1901, J. De Morgan và Jean Vincent Scheil (1858 - 1940) đã tìm ra được nguyên bản của bộ luật này ở Susa, sao chép nó rồi đem về nước dịch thuật. Nguyên bản của bộ luật hiện được lưu giữ ở bảo tàng Louvre (Pháp). Các vị vua tiếp theo, có lẽ do ảnh hưởng của người Canaan nên cho đổi tên hiệu mình theo tên người Canaan: Abi-Eshuh và Ammisaduqa.
<sup class="noprint Inline-Template Template-Fact" data-ve-ignore="true" style="white-space:nowrap;">&#x5B; ''<nowiki><span title="This claim needs references to reliable sources. (July 2018)">cần dẫn nguồn</span></nowiki>'' &#x5D;</sup>
<sup class="noprint Inline-Template Template-Fact" data-ve-ignore="true" style="white-space:nowrap;">&#x5B; ''<nowiki><span title="This claim needs references to reliable sources. (July 2018)">cần dẫn nguồn</span></nowiki>'' &#x5D;</sup>
 
Hai thế kỷ tiếp theo, được gọi là thời Isin-Larsa, đã chứng kiến miền nam Lưỡng Hà bị chi phối bởi cuộc cạnh tranh giành quyền thống trị của hai thành bang của người Amorite là [[Isin]] và [[Larsa]]. Ilushuma của Assyria (1945 -1906 TCN) trở thành một vị vua quyền lực, đã xâm chiếm các thành bang phía nam và thành lập các thuộc địa ở [[Tiểu Á]]. Điều này đã trở thành một kiểu mẫu lặp lại trong suốt lịch sử của Lưỡng Hà cổ đại với sự cạnh tranh trong tương lai giữa Assyria và Babylonia.
Quân đội của Babylon thời Hammurabi tổ chức rất kỷ luật, đã nhiều lần đánh thắng quân đội của các vương quốc kế cận nó như Isin, Eshnunna, Uruk, Mari. Ở phía bắc, quân đội của Hammurabi cũng giành thắng lợi trước quân Assyria sau cuộc đọ sức bất phân thắng bại của ông với vua Assyrian Ishme-Dagan, giành được quyền kiểm soát Lưỡng Hà. [3]
 
=== Triều đại Babylon đầu tiên - Triều đại Amorite, 1894-1595 TCN ===
Người Babylon truyền thống rất tôn thờ vị thần chủ của Babylon, thần Marduk, coi ngài là thần chủ của toàn bộ Lưỡng Hà, kể cả vùnh phía nam ít dưới sự kiểm soát của Trung ương.
[[Tập tin:F0182_Louvre_Code_Hammourabi_Bas-relief_Sb8_rwk.jpg|nhỏ| Hammurabi (đứng), nhận biểu tượng hoàng gia từ [[Utu|Shamash]] (hoặc có thể là Marduk). Hammurabi đưa hai tay lên miệng như một biểu tượng của lời cầu nguyện<ref>{{Chú thích|title=Ancient Iraq}}</ref> (khắc ở phần trên của tấm bia [[bộ luật Hammurabi]]). ]]
Một trong những triều đại Amorite này đã thành lập tiểu vương quốc Kazallu, bao gồm [[Babylon]] - khi đó vẫn là một thị trấn nhỏ, vào khoảng năm 1894 TCN.
 
Một thủ lĩnh Amorite là Sumu-abum đã chiếm đoạt các vùng lãnh thổ xung quanh Kazallu, bao gồm Babylon. Sumuabum đã thành lập nhà nước tại các tiểu quốc và thành trấn này, tuy nhiên, ông dường như chưa bao giờ xưng là ''Vua Babylon'', cho thấy rằng Babylon vẫn chỉ là một tiểu thành trấn, chưa đủ để xác lập vương quyền.<ref>Robert William Rogers, A History of Babylonia and Assyria, Volume I, Eaton and Mains, 1900.</ref>
Người Babylon, cũng giống như những tộc người trước, tham gia hoạt động thương mại liên tục với người Amories, người Canaan. Các quan chức thì tự do dẫn dắt quân đội đi đến Levant và Canaan, có lẽ để kết liên minh hay mở rộng buôn bán với họ. Các thương nhân được tự do buôn bán khắp vùng Lưỡng Hà. Một người Amorites (có lẽ là quý tộc) sống vào thời Hammurabi, công nhận các chiến công của người cháu của vua là Ammi-Ditana, gọi với biệt danh mỹ miều: Vua của vùng đất Amori.
 
Trong triều đại của các vị vua tiếp theo cũng không hề có ghi chép nào đề cập đến vương quyền tại Babylon. Sin-Muballit là người đầu tiên trong số những vị vua Amorite này chính thức được công nhận là ''vua của Babylon'', nhưng chỉ được nhắc đến một phiến đất sét duy nhất. Dưới thời các vị vua này, Babylon vẫn là một quốc gia nhỏ và tương đối yếu, bị lu mờ bởi các quốc gia lâu đời và hùng mạnh hơn như Isin, [[Larsa]], [[Assyria]] và [[Elam]]. Người Elam chiếm giữ những vùng đất rộng lớn ở miền nam Lưỡng Hà, và những vị vua Amorite đầu tiên phần lớn đều thần phục Elam.
Tuy nhiên, miền Nam do khá bằng phẳng, không có địa hình hiểm trở nên liên tục bị các tộc người du mục từ các vùng khác tấn công. Sau cái chết của Hammurabi, đế chế của ông bắt đầu tan rã nhanh chóng. Dưới thời vị vua kế vị ông là Samsu-iluna (1750 - 1712 TCN), miền Nam Lưỡng Hà đã bị một vị thủ lĩnh người Akkad bản địa có tên gọi là Ilum-ma-ilī đã đánh chiếm và thành lập triều đại Sealand làm chủ khu vực này 272 năm. Ở phía bắc, vương quốc Babylon và cả Amori bị người Assyria dưới sự chỉ huy của Thống đốc Assyria thuộc Babylon Puzur-Sin tràn xuống đánh chiếm một vùng rộng lớn, sau đó đã đặt Adasi lên làm vua vùng đất mới đánh chiếm này. Triều đại Babylon tiếp tục thống trị 150 năm nữa, cho đến vị vua thứ 11 của triều đại, vua Samsu-Ditana. Ông bị lật đổ sau cuộc bao vây thành Babylon ác liệt của quân [[Hittite]] do vua [[Mursili I]] chỉ huy, và ngôi thành đã bị quân Hittite tàn phá hết. Sau đó, Babylon rơi vào tay người [[Katsites]], một tộc người mà của Samsu-iluna đã tấn công họ trong năm thứ sáu của mình.
 
==== Đế chế của Hammurabi ====
Cùng thời với đế quốc Cổ Babylon, vào thời Samsu-iluna người Sumer thành lập một triều đại mới là triều Sealand, được xem như triều đại thứ hai của Babylon, cai trị từ 1732 - 1460 TCN, và có lẽ triều đại này cũng ra đời, tồn tại song song với đế chế [[Assyria]] lúc đó. Triều đại này đóng đô ở một tỉnh phía nam đế quốc Cổ Babylon, nằm gần 2 sông lớn nhất [[Lưỡng Hà]]. Vị vua thứ ba của triều đại này hình như có quan hệ với vua Damiq-ilišu của vương quốc Isin. Họ sử dụng tiếng Akkad làm ngôn ngữ chính.
Babylon vẫn là một thị trấn nhỏ trong một tiểu quốc cho đến vị vua Amorite thứ sáu, [[Hammurabi]], 1792-1717 TCN (hoặc khoảng năm 1728 - 1686 TCN theo niên đại ngắn). Ông đã thực hiện những công trình xây dựng lớn ở Babylon, mở rộng nó từ một thị trấn nhỏ thành một thành phố lớn tương xứng với vương triều. Là một nhà cai trị hiệu quả, ông thành lập một bộ máy quan lại, đặt ra thuế và chính quyền trung ương. Hammurabi đã giải phóng Babylon khỏi ách thống trị của Elam, và đánh đuổi người Elamite khỏi miền nam Lưỡng Hà. Sau đó, ông đã chinh phục lần lượt toàn bộ miền nam Lưỡng Hà, bao gồm Isin, Larsa, Eshnunna, Kish, [[Lagash]], Nippur, Borsippa, Ur, Uruk, Umma, Adab, Sippar, Rapiqum và Eridu. Các cuộc chinh phạt của ông đã mang lại cho khu vực sự ổn định sau thời kỳ hỗn loạn, và thống nhất các tiểu quốc thành một quốc gia; từ thời của Hammurabi trở đi, miền nam Lưỡng Hà được gọi là ''Babylonia''.
 
Hammurabi cho quân đội lên phía đông và xâm chiếm khu vực sau này là [[Iran]], chinh phục Elam, Guti, Lullubi và Kassite. Ở phía tây, ông đã chinh phục các vương quốc Amorite của Levant ([[Syria]] và [[Jordan]] hiện đại) bao gồm các vương quốc hùng mạnh [[Mari, Syria|Mari]] và Yamhad.
Các vị vua:
# Ilum-ma-ilī: 1732 - 1672 TCN
# Itti-ili-nībī: 1671 - 1615 TCN
# Damqi-ilišu II: 1614 - 1578 TCN
# Iškibal: 1577 - 1562 TCN
# Šušši: 1561 - 1537 TCN
# Gulkišar 55 years
# DIŠ-U-EN [ i 4 ]
# Pešgaldarameš, 50 years
# Ayadaragalama, 28 years
# Akurduana 26 years
# Melamkurkurra 7 years
# Ea-gam, 9 year
 
Sau đó, Hammurabi bước vào một cuộc chiến kéo dài với Đế quốc Cổ Assyria để giành quyền kiểm soát Lưỡng Hà và bá chủ Cận Đông. Assyria đã bành trướng ra phần lớn các khu vực Hurri và [[Người Hatti|Hatti]] ở phía đông nam Anatolia từ thế kỷ 21 TCN, và từ phần sau của thế kỷ 20 TCN đã xác lập quyền lực ở phía đông bắc Levant và trung tâm Lưỡng Hà. Sau một cuộc đấu tranh kéo dài trong nhiều thập kỷ với các vị vua Assyria hùng mạnh Shamshi-Adad I và Ishme-Dagan I, Hammurabi đã buộc người kế vị Mut-Ashkur của họ phải thần phục Babylon vào khoảng năm 1751 TCN và nhượng lại các thuộc địa Hatti và Hurri lâu đời của Assyria ở Anatolia.<ref>Oppenheim Ancient Mesopotamia</ref>
Vương quốc Babylon thuộc Kassites
 
Một trong những công trình quan trọng và kéo dài nhất của Hammurabi là việc biên soạn bộ luật Babylon, hoàn thiện từ các bộ luật trước đây của [[Sumer]], Akkad và Assyria. Việc này được Hammurabi cho tiến hành sau khi đuổi người Elam ra khỏi vương quốc. Năm 1901, một bản sao của [[Bộ luật Hammurabi]] đã được Jacques de Morgan và Jean-Vincent Scheil phát hiện trên một [[Bia (kiến trúc)|tấm bia]] tại [[Susa]] ở Elam. Bản sao đó hiện đang ở [[Viện bảo tàng Louvre|Louvre]].
Triều đại Kassites ở Babylon được lập bởi Agum, vị thủ lĩnh tối cao của người Kassites thời đó. Người Kassites có gốc ở vùng núi Zagros ở Lorestan (nay thuộc Iran), không phải giống người thuộc chủng Ấn - Âu hay Do Thái. Nhiều nhà nghiên cứu xác định, ngôn ngữ người Kassies dùng có liên quan đến ngôn ngữ của người Hurrian. Họ xuất hiện lần đầu tiên ở Lưỡng Hà sau cuộc tấn công Babylon vào năm thứ 9 của triều vua Samsu-iluna. Sau khi đánh chiếm Babylon, người Kassites đổi tên thành Babylon thành tên "Kar-Duniash", thống trị Babylon đến 576 năm, một triều đại dài nhất trong lịch sử Babylon (triều đại Sealand).
 
Từ trước năm 3000 TCN cho đến triều đại Hammurabi, trung tâm văn hóa và tôn giáo lớn của miền nam Lưỡng Hà là thành phố cổ Nippur, nơi thờ phụng thần [[Enlil]]. Hammurabi đã chuyển vị trí thống trị sang Babylon, biến vị thần bản địa của Babylon Marduk trở thành thần linh tối cao của miền nam Lưỡng Hà (cùng với [[ Ashur (thần) |Ashur]], và ở một mức độ nào đó là [[Inanna|Ishtar]], vẫn là vị thần thống trị ở Assyria miền bắc Lưỡng Hà). Thành Babylon được coi như một "thành phố linh thiêng", là vùng đất bắt buộc phải giành được đối với bất kỳ người cai trị hợp pháp nào ở miền nam Lưỡng Hà. Hammurabi đã biến một thị trấn nhỏ thành một thành phố lớn, hùng mạnh và có ảnh hưởng trên toàn bộ miền nam Lưỡng Hà.
Các vua triều Kassites: (1570 - 1165 TCN)
# Agum II: 1570 TCN
# Burnaburiash I
# Kashtiliash III
# Ulamburiash
# Agum III
# Karaindash
# Kadashman-harbe I
# Kurigalzu I: 1415 - 1390 TCN
# Kadashman-Enlil I: 1390 — 1360 TCN
# Burnaburiash II: 1359 — 1333 TCN
# Kara-hardash: 1333 TCN
# Nazi-Bugash or Shuzigash: 1333 TCN
# Kurigalzu II: 1332 — 1308 TCN
# Nazi-Maruttash: 1307 — 1282 TCN
# Kadashman-Turgu: 1281 — 1264 TCN
# Kadashman-Enlil II: 1263 — 1255 TCN
# Kudur-Enlil: 1254 — 1246 TCN
# Shagarakti-Shuriash: 1245 — 1233 TCN
# Kashtiliashu IV: 1232 — 1225 TCN
# Enlil-nadin-shumi: 1224 TCN
# Kadashman-Harbe II: 1223 TCN
# Adad-shuma-iddina: 1222 — 1217 TCN
# Adad-shuma-usur: 1216 — 1187 TCN
# Meli-Shipak II: 1186 — 1172 TCN
# Marduk-apla-iddina I: 1171 — 1165 TCN
 
Babylon dưới thời Amorite cai trị cũng giống như các quốc gia tiền thân, tham gia buôn bán thường xuyên với các thành bang Amorite và [[Canaan]] ở phía tây. Các quan chức hoặc quân đội Babylon có khi đi đến Levant và Canaan, còn các thương nhân Amorite hoạt động tự do trên khắp Lưỡng Hà. Các quốc vương của Babylon vẫn liên kết mạnh mẽ với vùng phía tây trong một thời gian. Ammi-Ditana, chắt của Hammurabi, tự xưng là "vua của xứ sở Amorite". Cha và con trai của Ammi-Ditana cũng có tên Amorite: Abi-Eshuh và Ammi-Saduqa.
Sự thống trị của nước ngoài đối với Lưỡng Hà có lẽ tương đồng với sự thống trị của [[Hyksos]] ở Ai Cập cổ đại. Các ảnh hưởng của Chúa trong tôn giáo Lưỡng Hà đã dần biến mất trong thời kỳ này, không thấy xuất hiện trong chính quyền Kassites. Tuy nhiên, Babylon vẫn là thủ đô của vương quốc và là "thành phố thánh", nơi các giáo sĩ thể hiên nhiệm vụ, sức mạnh toàn năng của mình và là nơi duy nhất các đế chế có thể nối tiếp nhau trị vì vùng đất này. Tuy nhiên, sự cai trị của Kassites ở Babylon tương đối yếu và chưa vững chắc, điều này tạo điều kiện cho người Assyria và Elam xâm nhập vào.
 
==== Suy tàn ====
Trước khi Kassites xâm nhập vùng Lưỡng Hà, đất này đã bị quân Hittite tràn vào tàn phá đô thành, giết người rất tàn bạo. Sau khi họ rút, một thủ lĩnh người Kassites là Agum II đã đem quân vào chiếm lĩnh, và mở rộng dần thế lực của minh sang toàn Lưỡng Hà. 24 năm sau khi quân Hittite cướp tượng vàng thần Marduk trong thành Babylon, ông đã chủ trương hồi phục tôn giáo và lấy vị thần chủ của mình, thần Shuqamuna làm vị thần toàn vương quốc. Vùng Nam Lưỡng Hà (thuộc triều Sealand) vẫn được độc lập cho đến khi bị quân Kassites do vua Ulamburiash chinh phục nó từ Ea-gamil, một vị vua người Sumer cai trị ở đây, khoảng 1450 trước Công nguyên. Ông đã ký một hiệp ước quốc tế với Pharaoh Ai Cập Thutmosis III Đại đế, cho phép mình được cai quản vùng Nam Cận Đông, và Assyria ở phía bắc. Các vua kế tiếp, Karaindash xây dựng một ngôi đền tạc đầy các phù điêu ở Uruk và Kurigalzu I (1415 - 1390 TCN) xây dựng một thủ đô mới rồi lấy tên mình đặt cho nó. Sau ông, Kadashman-Enlil I (1390 - 1375 TCN) và Buriash Burna II (1375 - 1347 TCN) đã trao đổi thư từ cho các Pharaoh Ai Cập Amenhotep III và Amenhotep IV (Akhenaton) cho các mục đích hôn nhân và thương mại.
[[Tập tin:Cylinder_seal,ca._18th–17th_century_B.C._Babylonian.jpg|nhỏ| Con dấu hình trụ, k. thế kỷ 17-18 TCN. Babylonia ]]
Miền Nam Lưỡng Hà do khá bằng phẳng, không có địa hình hiểm trở nên liên tục bị các tộc người du mục từ các vùng khác tấn công. Sau cái chết của Hammurabi, đế chế của ông bắt đầu tan rã nhanh chóng. Dưới thời vị vua kế vị là [[Samsu-Iluna|Samsu-iluna]] (1750 - 1712 TCN), vùng cực Nam đã bị một vị thủ lĩnh người Akkad bản địa có tên gọi là Ilum-ma-ilī đã đánh chiếm và thành lập vương quốc Hải Địa, độc lập với Babylonia trong 272 năm tiếp theo.<ref name="Georges Roux - Ancient Iraq">Georges Roux, ''Ancient Iraq''</ref>
 
Người Babylon và những người cai trị Amorite bị đuổi khỏi Assyria lên phía bắc bởi một tổng trấn Assyria-Akka là Puzur-Sin k. 1740 TCN. Ông tuyên bố vua Mut-Ashkur vừa là người ngoại bang Amorite vừa là tay sai của Babylon. Sau sáu năm nội chiến ở Assyria, một vị vua bản địa tên là Adasi thâu tóm quyền lực k. 1735 TCN, và tiếp tục đánh chiếm các vùng lãnh thổ Babylon và Amorite ở trung tâm Lưỡng Hà, cũng như người kế vị ông là Bel-bani.
Ông (Buriash Burna II) bị lật đổ bởi vua Ashur-uballit I, và vị vua Assyria đã sáp nhập Babylon vào lãnh thổ Trung Đế chế Assyria, đặt Kurigalzu II (1345 - 1324 TCN) là người cai trị. Kurigalzu II tiếp tục chiến đấu chống quân Assyria, nhưng bị đánh bại và mất rất nhiều đất đai. Sau đó, ông cũng liên minh với Hittite đã giành lại đất, nhưng bất thành. Đến thời vua Kashtiliash IV (1242 - 1235 TCN), trong một trận đánh lớn vua Assyria Tukulti-Ninurta I, quân đội của ông bị thất bại hoàn toàn, ông bị bắt làm tù binh đưa về kinh đô Ashur của Assyria.
 
Ách cai trị của người Amorite còn lại ở một Babylon bị giảm đi đáng kể, người kế vị của Samshu-iluna, Abi-Eshuh đã cố giành lại lãnh thổ Hải Điạ, nhưng thất bại dưới tay vua Damqi-ilishu II. Vào cuối triều đại của ông, Babylonia đã bị thu hẹp trở lại thành một quốc gia nhỏ bé và tương đối yếu nhược như trước đây, tuy thành phố này lớn hơn nhiều so với thị trấn nhỏ trước thời Hammurabi.
 
Samsu-Ditana là vị vua Amorite cuối cùng của Babylon. Những [[người Hitti]] [[Ngữ hệ Ấn-Âu|nói tiếng Ấn-Âu]] gốc Anatolia đã tấn công Babylon vào năm 1595 TCN, lật đổ Samsu-Ditana sau "trận phá thành Babylon" của vua Hitti Mursili I. Người Hitti rút đi, để lại vùng đất cho đồng minh Kassite của họ.
 
*
 
=== Triều đại Kassite, 1595-1155 TCN ===
[[Tập tin:Kassite_Babylonia_EN.svg|nhỏ| Phạm vi của Đế quốc Babylon trong triều đại Kassite ]]
Vương triều Kassite được thành lập bởi Gandash của Mari. Đây không phải tộc người bản địa Lưỡng Hà mà từ nơi khác đến [[dãy núi Zagros]] ở tây bắc Iran ngày nay. Chưa có nhiều điều được biết về chủng tộc Kassite. Tuy nhiên, ngôn ngữ của họ không phải là [[Ngữ tộc Semit|tiếng Semit]] hay [[Ngữ hệ Ấn-Âu|Ấn-Âu]], và được cho là [[Ngôn ngữ tách biệt|ngôn ngữ cô lập]] hoặc có thể liên quan đến nhánh ngôn ngữ Hurri-Urarti của Anatolia.<ref name="Schneider">{{Chú thích tạp chí|last=Schneider|first=Thomas|year=2003|title=Kassitisch und Hurro-Urartäisch. Ein Diskussionsbeitrag zu möglichen lexikalischen Isoglossen|journal=Altorientalische Forschungen|language=German|issue=30|pages=372–381}}</ref> Tuy nhiên, một số thủ lĩnh Kassite có thể được đặt những cái tên Ấn-Âu, và họ có thể có một giới quý tộc Ấn-Âu tương tự như giới quý tộc [[Mitanni]] cai trị người Hurri ở miền trung và miền đông Anatolia sau này.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.britannica.com/EBchecked/topic/285248/India/46842/Early-Vedic-period|tựa đề=India: Early Vedic period|website=[[Encyclopædia Britannica Online]]|nhà xuất bản=[[Encyclopædia Britannica, Inc.]]|ngày truy cập=8 September 2012}}</ref><ref>{{Chú thích web|url=http://www.britannica.com/EBchecked/topic/293553/Iranian-art-and-architecture/37848/Median-period|tựa đề=Iranian art and architecture|website=[[Encyclopædia Britannica Online]]|nhà xuất bản=[[Encyclopædia Britannica, Inc.]]|ngày truy cập=8 September 2012}}</ref>
 
Người Kassite đổi tên thành Babylon thành "Kar-Duniash", thống trị Babylon trong 576 năm, là triều đại dài nhất trong lịch sử Babylon. Sự đô hộ ngoại bang này tương tự với triều đại của người [[Người Hyksos|Hyksos]] ở [[Ai Cập cổ đại]]. Thần tính gắn với các vị vua Amorite bị bãi bỏ, các vị vua Kassite không bao giờ tự xưng "thần thánh". Tuy nhiên, Babylon vẫn là thủ đô của vương quốc và là "thánh địa" của Tây Á, nơi các tu sĩ [[Tôn giáo Lưỡng Hà cổ đại|tôn giáo cổ Lưỡng Hà]] có quyền hành tối cao, và là nơi thừa kế chính danh duy nhất còn tồn tại của đế chế Cổ Babylon.<ref>{{EB1911|inline=1|last=Sayce|first=Archibald Henry|author-link=Archibald Henry Sayce|wstitle=Babylonia and Assyria|volume=3|page=104}}</ref>
 
Babylon có một vài thời kì ngắn tương đối hùng mạnh, tuy nhiên nhìn chung, nó không phải một cường quốc ở Cận Đông, chịu ảnh hưởng và can thiệp của Assyria và Elam.
 
Không rõ chính xác thời điểm Kassite bắt đầu cai trị Babylon. Sau khi người Hitti rút đi, vua Kassite là Agum II (lên ngôi k.1595 TCN) đã đem quân vào Babylon, và mở rộng lãnh thổ từ Iran cho tới trung Euphrates. Ông kí hòa ước với vua Assyria Erishum III và tiến hành chiến tranh với Hitti. 24 năm sau khi quân Hittite cướp tượng vàng thần Marduk từ thành Babylon, ông đã lấy lại được bức tượng và tuyên bố Marduk tương đương với vị thần tối cao của người Kassite là Shuqamuna.
 
[[Tập tin:Ancient_Egypt_and_Mesopotamia_c._1450_BC.png|nhỏ|295x295px| Bản đồ Lưỡng Hà c. 1450 TCN ]]
 
Vương quốc Hải Địa ở miền nam Lưỡng Hà vẫn độc lập với Babylon và thuộc về người Akkad bản địa, tuy vẫn bị người Kassite nhòm ngó. Ulamburiash của Kassite lập quan hệ ngoại giao với [[Ai Cập cổ đại]], lúc đó đang cai trị miền nam [[Canaan]] và Assyria ở phía bắc.
 
Karaindash kế vị đã xây dựng một ngôi đền ở Uruk. Ông tăng cường quan hệ ngoại giao với vua Assyria Ashur-bel-nisheshu và Pharaoh Ai Cập [[Thutmosis III|Thutmose III]], đồng thời bảo vệ biên giới Babylon trước Elam.
 
Kurigalzu I (1415-1390 TCN) xây dựng thủ đô mới Dur-Kurigalzu được đặt theo tên ông ta, chuyển giao quyền lực hành chính từ Babylon. Ông chinh phục các vùng đất phía đông Elam, tấn công Susa thủ đô của Elam, và đặt một vị vua bù nhìn lên ngai vàng Elam, bị Babylon điều khiển. Kurigalzu I duy trì mối quan hệ thân thiện với Assyria, [[Ai Cập]] và Hitti trong suốt triều đại của mình.
 
Các vị vua tiếp theo, Kadashman-Enlil I (1390 - 1375 TCN) và Buriash Burna II (1375 - 1347 TCN) đã tăng cường quan hệ ngoại giao với Ai Cập thông qua liên hôn và trao đổi thương mại.
 
Buriash Burna II bị lật đổ bởi vua Ashur-uballit I, và vị vua Assyria đã sáp nhập Babylon vào lãnh thổ Trung Đế chế Assyria, đặt Kurigalzu II (1345 - 1324 TCN) là người cai trị. Kurigalzu II tiếp tục chiến đấu chống quân Assyria, nhưng bị đánh bại và mất rất nhiều đất đai. Sau đó, ông cũng liên minh với Hittite đã giành lại đất, nhưng bất thành. Đến thời vua Kashtiliash IV (1242 - 1235 TCN), trong một trận đánh lớn vua Assyria Tukulti-Ninurta I, quân đội của ông bị thất bại hoàn toàn, ông bị bắt làm tù binh đưa về kinh đô Ashur của Assyria.
 
Babylon đã bắt đầu phục hồi trong triều đại của Adad-shuma usur (1218 - 1189 TCN) Meli-Shipak và II (1188 - 1172 TCN) trong thời gian rất ngắn. Chiến tranh vẫn tiếp tục cho đến khi vua Elam là Shutruk-Nahhunte chinh phục thành Babylon và lật đổ triều đại Kassites. Các văn bản cổ (các thi phẩm) đào được ở đó có nói đến sự kiện bi thương này.
Hàng 90 ⟶ 115:
Mặt dù bị mất lãnh thổ, suy yếu về quân sự, văn hóa, nhưng người Kassites vẫn còn ý định khôi phục chủ quyền, thế nhưng, ý định đó bị tan vỡ khi vua Elam chiếm đóng vùng này và phục hưng trở lại. Vị vua sau ông, Nebuchadnezzar I (1126 - 1103 TCN) tái chinh phục lại nó, đưa nó đến sự phát triển cao nhất, trở thành trung tâm của Lưỡng Hà.
 
Burna-Buriash II lên ngôi năm 1359 TCN, ông giữ quan hệ hữu nghị với Ai Cập, nhưng trước sự trỗi dậy của Đế quốc Trung Assyrian (1365 -1050 TCN), ông kết minh với Assyria thông qua hôn nhân với con gái của vua Ashur-uballit I. Ông cũng duy trì mối quan hệ thân thiện với Suppiluliuma I của người cai trị Đế chế Hittite.
== Di sản, nổi tiếng ==
 
Kara-ḫardaš (cháu ngoại của vua Assyria) lên kế vị vào năm 1333 TCN, và bị soán ngôi bởi Nazi-Bugaš. Điều này làm Ashur-uballit I nổi giận và tấn công Babylon, giết Nazi-Bugaš, sáp nhập lãnh thổ Babylon vào Đế quốc Trung Assyria, và đưa Kurigalzu II (1345 -1324 TCN) lên làm vua bù nhìn của Babylon.
[[Bộ luật Hammorabi]] (1728 TCN), bộ luật thành văn cổ nhất thế giới. Bộ luật có ảnh hưởng tới pháp chế của những dân tộc phương Đông cổ. Dân cư được chia thành ba hạng người: dân tự do, tiện dân và [[nô lệ]]. Nguồn nô lệ chủ yếu được cấp từ nguồn tù binh chiến tranh, mua bán. Có tổ chức các tam ca (đại lý buôn bán)
 
Sau khi Arik-den-ili kế vị ngai vàng của Assyria vào năm 1327 TCN, Kurigalzu III tấn công Assyria nhằm giành lại độc lập cho Babylon, nhưng cuối cùng thất bại và mất thêm lãnh thổ cho Assyria. Từ 1307-1232 TCN, những vị vua tiếp theo Nazi-Maruttash, Kadashman-Turgu, Kadashman-Enlil II, Kudur-Enlil và Shagarakti-Shuriash, liên minh với đế chế Hitti và [[Mitanni]], (cả hai đều bị mất lãnh thổ vào tay Assyria đang nổi lên) để ngăn chặn sự bành trướng của Assyria, tuy nhiên đều không thành công.
Thiên niên kỷ II TCN, họ đã phân biệt 5 hành tinh của [[Mặt Trời|Mặt trời]]: [[Sao Kim|Kim]], [[Sao Thủy|Thủy]], [[Sao Hỏa|Hoả]], [[Sao Thổ|Thổ]], [[Sao Mộc|Mộc]] và phân biệt 12 [[chòm sao]]. Có những nghiên cứu về [[sao chổi]], [[sao băng]], [[động đất]]. Tính trước được [[nhật thực]], [[nguyệt thực]], đặt ra [[âm lịch]], [[Pha Mặt Trăng|tuần trăng]]. Lấy lịch thành phố Ur làm lịch chung cho toàn xứ Babylon, sau cải tiến thành Âm – Dương lịch có 354 ngày (thiếu 11 ngày, 5 giờ 48 phút 46 giây).
 
Dưới triều đại của Kashtiliash IV (1242-1235 TCN), vua Assyria Tukulti-Ninurta I (1243-1207 TCN) tấn công và đốt phá Babylon rồi xưng vương. Tuy nhiên, ông lại chính là người Lưỡng Hà ''bản địa'' trị vì đất nước này, vì những vị vua trước đây đều là người Amorite và Kassite ''ngoại bang''.<ref name="Georges Roux - Ancient Iraq">Georges Roux, ''Ancient Iraq''</ref> Kashtiliash bị bắt làm tù binh đưa tới Ashur.
Họ biết giải phẫu, và mô tả được 40 loại bệnh. Vị thần bảo hộ y học [[Nilghidzida]] mà vật tượng trưng là rắn quấn quanh cái gậy, được dùng làm biểu tượng y học ngày nay.
 
Một tổng trấn/vua Assyria là Enlil-nadin-shumi được đặt lên ngai vàng với tư cách là Phó vương của Tukulti-Ninurta I, và Kadashman-Harbe II và Adad-shuma-iddina kế vị sau đó tiếp tục thần phục Tukulti-Ninurta I cho đến năm 1216 TCN.
Về toán học, họ biết các phép tính bình phương, khai căn, [[pi|số pi]], định lý [[tam giác]] vuông. Người dân Lưỡng Hà sử dụng hệ thống số đếm căn bản 60. Đây là nguồn gốc của giờ 60 phút và ngày 24 giờ hiện nay, cũng như vòng tròn 360 độ. Sự hiểu biết toán học này đã được sử dụng trong việc lập bản đồ. Đo thời gian bằng đồng hồ ánh nắng, đồng hồ nước chảy.
 
Babylon đã bắt đầu phục hồi trong triều đại của Adad-shuma-usur (1218 - 1189 TCN) Meli-Shipak và II (1188 - 1172 TCN). Chiến tranh tiếp tục dưới thời các vị vua tiếp theo (1171-1155 TCN) cho đến khi vua Elam là Shutruk-Nahhunte chinh phục Babylon và lật đổ triều đại Kassites.
Babylon là tên gọi cho lưu vực lưỡng Hà từ giai đoạn này trở đi.
 
=== Thời kỳ đồ sắt sớm - Triều đại bản địa, Triều đại thứ hai của Isin, 1155-1026 TCN ===
{{thể loại Commons|Babylonia}}
Người Elamite không kiểm soát Babylonia được lâu vì chiến tranh với Assyria. Nhân cơ hội đó, Marduk-kabit-ahheshu (1155-1139 TCN) thành lập Vương triều Babylon IV của Isin, trở thành người nói tiếng Akkad bản địa nam Lưỡng Hà đầu tiên trị vì Babylon, và là người Lưỡng Hà bản địa thứ hai sau Tukulti-Ninurta I của Assyria. Triều đại này duy trì trong khoảng 125 năm. Marduk-kabit-ahheshu đánh đuổi thành công người Elam và tiêu diệt các thế lực Kassite còn sót lại, và cũng như các vị vua tiếp theo, thường xuyên chiến tranh với Assyria.
 
Nebuchadnezzar I (1124-1103 TCN) là nhà vua nổi tiếng nhất của triều đại này, đã chiến đấu và đánh đuổi người Elam khỏi lãnh thổ Babylon, xâm chiếm chính Elam, cướp phá thủ đô Susa của Elam và thu hồi bức tượng Marduk linh thiêng bị cướp đi từ Babylon sau khi Kassite sụp đổ. Ngay sau đó, vua Elam bị ám sát và vương quốc Elam rơi vào nội chiến. Tuy nhiên, Nebuchadnezzar đã thất bại trong việc mở rộng lãnh thổ Babylon, bị Ashur-resh-ishi I (1133-1115 TCN) của Đế quốc Trung Assyrian đánh bại nhiều lần trong quá trình giành quyền kiểm soát các vùng lãnh thổ Hitti cũ ở Aram và Anatolia. Đế chế Hitti ở phía bắc và phía tây Levant và phía đông Anatolia đã bị chiếm đóng phần lớn bởi Đế quốc Trung Assyrian, và vùng trung tâm bị người [[Phrygia]] từ [[Balkan]] xâm chiếm. Trong những năm cuối triều đại của mình, Nebuchadnezzar I tập trung xây dựng đất nước và bảo vệ biên giới chống lại người Assyria, Elam và Aram.
==Tham khảo==
{{tham khảo}}
 
Ở triều đại các vị vua tiếp theo (1103-1056), Babylon dần để mất lãnh thổ vào tay Assyria.
{{DEFAULTSORT:Babylonia}}
 
[[Thể loại:Babylonia| ]]
Năm 1072 TCN, Marduk-shapik-zeri đã ký hòa ước với Ashur-bel-kala (1075-1056 TCN) của Assyria, tuy nhiên người kế vị của ông là Kadašman-Buriaš không giao hảo với Assyria, vì vậy Assyria xâm chiếm Babylon và đặt Adad-apla-iddina lên ngai vàng làm vua chư hầu. Assyria tiếp tục thống trị Babylon cho đến k. 1050 TCN, Đế quốc Trung Assyria rơi vào nội chiến và chiến tranh liên miên với Aram, Phrygia, Tân Hitti và Hurri, nhờ đó Babylonia độc lập trong vài thập kỷ.
[[Thể loại:Levant cổ đại]]
 
[[Thể loại:Cựu quốc gia quân chủ ở Châu Á]]
Tuy nhiên, Babylon nói tiếng Đông Semit dần bị xâm lấn bởi các dân tộc du mục [[Nhóm ngôn ngữ Semit Tây|Tây Semit]] di cư từ Levant trong thời kỳ sụp đổ của Thời đại đồ đồng. Trong thế kỉ 11, các làng mạc Babylon đã bị chiếm đóng bởi những người di cư Aram và Sutu.
[[Thể loại:Lịch sử Kuwait]]
 
=== Thời kỳ hỗn loạn, 1026-911 TCN ===
Triều đại của Nabu-shum-libur bị những người Aram du mục lật đổ vào năm 1026 TCN, và Babylonia rơi vào tình trạng không có chính quyền trong hơn 20 năm.
 
Tuy nhiên, ở miền nam Lưỡng Hà (khu vực Vương quốc Hải Địa cũ), Triều đại V (1025-1004 TCN) trỗi dậy do Simbar-shipak người Kassite lãnh đạo, tách biệt với Babylon. Ashur-nirari IV (1019-1013 TCN) nhân cơ hội tấn công Babylon vào năm 1018 TCN, chiếm được thành Atlila và một số khu vực phía bắc.
 
Vương triều Lưỡng Hà phía nam đã được thay thế bằng một vương triều Kassite khác (Triều đại VI; 1003-984 TCN), dường như cũng đã giành được cả Babylon. Elam lật đổ cuộc phục hưng Kassite ngắn ngủi này và thành lập triều đại VII (984-977 TCN). Tuy nhiên, triều đại này cũng sụp đổ khi bị người Aram tàn phá.
 
Nabû-mukin-apli khôi phục lại vương triều tại Babylon vào năm 977 TCN, bắt đầu triều đại VIII. Triều đại IX bắt đầu với Ninurta-kudurri-usur II, k. 941 TCN. Babylon là một nước yếu, nằm dưới sự kiểm soát của người Aram và Sutu. Các vị vua Babylon thường bị buộc phải thần phục Assyria và Elam.
 
=== Assyria đô hộ, 911-619 TCN ===
Babylonia vẫn trong tình trạng hỗn loạn vào cuối thế kỷ thứ 10 TCN. Người Chaldea, một tộc người du mục ở Tây Bắc Semit được mô tả trong biên niên sử Assyria là "Kaldu", xuất hiện và định cư ở cực đông nam Babylon vào năm 850 TCN.
 
Từ năm 911 TCN, [[Đế quốc Tân Assyria|Đế chế Tân Assyrian]] (911-605 BC) thành lập, Babylon lại một lần nữa nằm dưới ách thống trị của Assyria trong ba thế kỷ tiếp theo.
 
Sau khi Tân Assyria suy yếu, Babylon rơi vào tay Marduk-apla-usur của Chaldea năm 780 TCN. [[Shamshi-Adad V]] của Assyria tấn công và chiếm lại miền bắc Babylon, bắt ông ta phải kí hòa ước có lợi cho Assyria. Tuy nhiên, Marduk-apla-usur và người Chaldea vẫn giữ được ngai vàng. Suốt thời kì này, Babylon ở trong tình trạng hỗn loạn, với phía bắc bị Assyria chiếm đóng, bị người Chaldea ngoại bang cai trị và tình hình dân cư bất ổn nổi lên khắp vùng đất.
 
Vua Nabonassar của Babylon đã lật đổ những kẻ tiếm ngôi Chaldea vào năm 748 TCN. Tuy nhiên, [[Tiglath-Pileser III]] của Assyria (745-727 TCN) sau khi lên ngôi lại tấn công Babylon và bắt Nabonassar thần phục. Babylon trở thành chư hầu của Assyria trong hai trăm năm cho đến năm 729 TCN, vua Assyria đã quyết định đặt Babylon dưới sự cai trị trực tiếp thay vì là vùng đất phụ thuộc.
 
Trong thời kỳ này, Tiếng Đông Aram được người Assyria đặt làm [[Lingua franca|ngôn ngữ chung]] của Đế quốc Tân-Assyrian, và tiếng Aram Lưỡng Hà bắt đầu thay thế tiếng Akkad, trở thành ngôn ngữ nói của dân chúng của cả Assyria và Babylon.
 
Một cuộc nổi dậy chống lại ách thống trị Assyria do thủ lĩnh Chaldea Marduk-apla-iddina II ở cực đông Lưỡng Hà cầm đầu (721-710 BC), được người Elam hậu thuẫn. Marduk-apla-iddina II cuối cùng đã bị đánh bại bởi Sargon II của Assyria và lưu vong ở Elam.
 
Sennacherib (705-681 TCN) đã kế vị Sargon II, và sau khi cai trị trực tiếp một thời gian, ông đưa con trai Ashur-nadin-shumi lên ngai vàng. Nergal-ushezib của Elam giết chết hoàng tử Assyria và soán ngôi. Sennacherib nổi giận, đánh bại Elam và cướp phá Babylon, phá hủy phần lớn thành phố. Sennacherib sau đó bị sát hại bởi chính con trai mình khi cầu nguyện với thần Nisroch ở [[Nineveh]] năm 681 TCN. Một vị vua bù nhìn, Marduk-zakir-shumi II, được vua Assyria mới Esarhaddon đặt lên ngai vàng. Tuy nhiên, Marduk-apla-iddina trở về từ Elam, soán ngôi trong một thời gian ngắn trước khi bị Esarhaddon đánh bại và lần nữa lại phải lưu vong ở Elam cho đến khi qua đời.
 
Esarhaddon (681-669 TCN) trực tiếp cai trị Babylon. Ông xây dựng lại hoàn toàn thành phố, mang lại sự tươi trẻ và hòa bình cho khu vực. Sau khi chết, nhằm duy trì cân bằng trong đế chế rộng lớn của mình (trải dài từ vùng Kavkaz đến Ai Cập đến [[Nubia]] và từ [[Cộng hòa Síp|đảo Síp]] đến Iran), ông đưa con trai cả Shamash-shum-ukin làm vua chư hầu ở Babylon và người con út, [[Ashurbanipal]] có học thức cao (669-627 TCN), ở ngôi vị cao hơn là vua của Assyria.
 
Mặc dù là một người Assyria, Shamash-shum-ukin, sau nhiều thập kỷ khuất phục, đã tuyên bố thành Babylon (chứ không phải thành phố [[Nineveh]] của Assyria) là kinh đô của đế quốc và nổi dậy chống lại em trai mình. Ông lãnh đạo liên minh các dân tộc bị Assyria áp bức, bao gồm Elam, [[Người Ba Tư|Ba Tư]], [[Người Media|Media]], Babylon, Chaldea và Sutu ở miền nam Lưỡng Hà, Aram ở Levant và Tây Nam Lưỡng Hà, [[Người Ả Rập|Ả Rập]] và Dilmun ở bán đảo Ả Rập và Canaan-Phoenicia. Sau một cuộc chiến khốc liệt, Babylon bị phá hủy và liên minh bị nghiền nát. Shamash-shum-ukim bị giết, Elam bị hủy diệt hoàn toàn, và các tộc người tham gia nổi loạn bị đàn áp dã man. Một tổng trấn Assyria là Kandalanu được đặt lên ngai vàng cai trị thay mặt cho vua Assyria.<ref name="Georges Roux - Ancient Iraq">Georges Roux, ''Ancient Iraq''</ref> Sau khi Ashurbanipal qua đời vào năm 627 TCN, con trai của ông là Ashur-etil-ilani (627-623 TCN) đã trở thành vua của Babylon và Assyria.
 
Tuy nhiên, Assyria sớm rơi vào một loạt các cuộc nội chiến tàn khốc dẫn đến sự sụp đổ của đế quốc. Ashur-etil-ilani đã một trong những tướng lĩnh của mình là Sin-shumu-lishir soán ngôi vào năm 623 TCN. Chỉ một năm sau, Sin-shar-ishkun (622-612 TCN) lật đổ ông tav, trở thành vua của Assyria và Babylonia vào năm 62 TCN. Tuy nhiên, nội chiến nổi lên không ngớt ở vùng trung tâm Assyria. Lợi dụng điều này, Nabopolassar của Chaldea nổi dậy và giành độc lập cho Babylon.
 
Vào triều đại của Sin-shar-ishkun, đế chế rộng lớn của Assyria bắt đầu tan rã, nhiều nước chư hầu đã ngừng thần phục, đáng kể nhất là người Babylon, Chaldea, [[Người Media|Media]], [[Người Ba Tư|Ba Tư]], [[Người Scythia|Scythia]], Aram và [[Người Cimmeria|Cimmeria]].
 
=== Đế chế Tân Babylon (Thời đại Chaldea) ===
[[Tập tin:Empire_neo_babylonien.png|nhỏ| [[Đế quốc Tân Babylon|Đế chế Tân Babylon]] ]]
[[Tập tin:Panorama_view_of_the_reconstructed_Southern_Palace_of_Nebuchadnezzar_II,_6th_century_BC,_Babylon,_Iraq.jpg|nhỏ| Toàn cảnh Cung điện phía Nam của Nebuchadnezzar II được phục dựng, thế kỷ thứ 6 TCN, Babylon, Iraq ]]
Vào năm 620 TCN, Nabopolassar đã giành quyền kiểm soát phần lớn Babylon và được dân chúng ủng hộ, ngoại trừ thành Nippur và một số khu vực phía bắc vẫn trung thành với vua Assyria.<ref name="Georges Roux - Ancient Iraq">Georges Roux, ''Ancient Iraq''</ref> Nabopolassar dành bốn năm tiếp theo chiến đấu với quân đội Assyria đóng quân tại Babylon. Tuy nhiên, Sin-shar-ishkun của Assyria bị phân tán bởi những cuộc nổi loạn liên tục ở [[Nineveh]] nên đã không thể dẹp tan được Nabopolassar.
 
Vào năm 615 TCN, Nabopolassar liên minh với [[Cyaxares]], chư hầu của Assyria và là vua của các dân tộc Iran; [[Người Media|Media]], [[Iran|Ba Tư]], Sagartia và [[Người Parthia|Parthia]]. Cyaxares cũng lợi dụng tình trạng hỗn loạn để giải phóng các dân tộc Iran sau ba thế kỷ bị Assyria và Elam cai trị. Những dân tộc bị áp bức khác như người [[Người Scythia|Scythia]] từ phía bắc của [[Kavkaz]] và người [[Người Cimmeria|Cimmeria]] từ [[Biển Đen]], và các bộ lạc Aram trong khu vực cũng gia nhập liên minh.
 
Vào năm 615 TCN, trong khi vua Assyria dồn sức dẹp loạn ở cả Babylonia và Assyria, Cyaxares đã phát động một cuộc tấn công bất ngờ vào trung tâm Assyria, cướp phá các thành phố [[Nimrud|Kalhu]] ([[Nimrud|Calah]], [[Nimrud]] trong [[Kinh thánh]]) và Arrapkha (Kirkuk hiện đại). Nabopolassar vẫn bị vây ở miền nam Lưỡng Hà nên không tham dự chiến dịch này.
 
Từ lúc đó, liên minh của người Babylon, Chaldea, Meia, Ba Tư, Scythia, Cimmeria và Sagartia đã đồng loạt nổi dậy chống lại Assyria. Các thành phố lớn của Assyria như Ashur, Arbela ([[Erbil|Irbil]] hiện đại), Guzana, Dur Sharrukin (Khorsabad hiện đại), [[Balawat, Muddebihal|Imgur-Enlil]], Nibarti-Ashur, Gasur, Kanesh, Kar Ashurnasipal và Tushhan đã rơi vào tay liên quân vào năm 614 TCN. Sin-shar-ishkun đã đảo ngược tình thế vào năm 613 TCN, thành công đẩy lùi quân nổi loạn.
 
Tuy nhiên, liên quân quay lại tấn công đa phương diện vào năm tiếp theo, và sau năm năm chiến đấu ác liệt, [[Nineveh]] bị công phá vào cuối năm 612 TCN sau một cuộc bao vây kéo dài. Sin-shar-ishkun bị giết khi thủ thành.
 
Chiến loạn vẫn tiếp tục ở Nineveh. Một tướng lĩnh trong hoàng tộc Assyria là Ashur-uballit II lên ngôi (612-605 TCN). Theo Biên niên sử Babylon, ông được liên quân khuyên hàng và chấp nhận xưng thần, nhưng ông từ chối và tìm cách rút khỏi Nineveh để đến thành phố phía Bắc Assyria [[Harran]] ở Thượng Lưỡng Hà và thành lập kinh đô mới. Cuộc chiến vẫn tiếp diễn cho đến năm 607 TCN, Ashur-uballit II bị Media, Babylon, Scythia và đồng minh đánh bật khỏi Harran. Số phận của ông sau đó vẫn chưa rõ.
 
Pharaoh Necho II của [[Ai Cập cổ đại|Ai Cập]], triều đại chư hầu do Assyria lập nên năm 671 TCN, trợ giúp Assyria vì lo sợ Ai Cập sẽ bị các thế lực mới thôn tính nếu Assyria không còn nữa. Người Assyria có Ai Cập trợ giúp cho đến thất bại quyết định tại Carestoish ở tây bắc Assyria năm 605 TCN. Vị trí đế quốc được chuyển giao cho Babylon{{Sfn|Chisholm|1911|p=105}} lần đầu tiên kể từ thời Hammurabi hơn một ngàn năm trước.
 
[[Naboukhodonosor II|Nebuchadnezzar II]] lên kế vị (605-562 TCN) và trị vì trong 43 năm, đưa Babylon một lần nữa trở thành bá chủ của phần lớn thế giới văn minh, tiếp quản các phần của Đế quốc Assyria cũ, với phần phía đông và đông bắc là Media và phía cực bắc là [[Người Scythia|Scythia]].{{Sfn|Chisholm|1911|p=105}}
 
Nebuchadnezzar II phải đối mặt với tàn dư Assyria và các mối đe dọa mới là người [[Người Scythia|Scythia]] và [[Người Scythia|người]] [[Người Cimmeria|Cimmeria]], vốn là các đồng minh cũ dưới thời Nabopolassar. Nebuchadnezzar II đem quân lên Anatolia và đánh tan các thế lực này, chấm dứt mối đe dọa ở phía Bắc.
 
Người Ai Cập cố gắng trụ lại Cận Đông, có thể là để khôi phục Assyria làm vùng đệm an toàn chống lại Babylon, Media và Ba Tư, hoặc để tạo ra một đế chế mới của riêng họ. Nebuchadnezzar II tấn công người Ai Cập và đẩy họ trở lại [[Bán đảo Sinai|Sinai]]. Tuy nhiên, ông không thể khuất phục được Ai Cập như Assyria đã làm, chủ yếu là do một loạt các cuộc nổi loạn từ [[Người Israel (cổ đại)|Israel]] của [[Vương quốc Judah|Judah]] và cổ vương quốc Ephraim, [[Phoenicia]] của [[Canaan|Caanan]] và Aram của Levant. Babylon đã nghiền nát những cuộc nổi loạn này, phế truất Jehoiakim của [[Vương quốc Judah|Judah]] và áp giải một phần lớn dân số về Babylonia. Các thành phố như [[Týros|Tyre]], Sidon và [[Damascus]] cũng bị thu phục. Người [[Người Ả Rập|Ả Rập]] và các dân tộc Nam Ả Rập khác cư ngụ trong các sa mạc ở phía nam biên giới Lưỡng Hà sau đó cũng bị khuất phục.
 
Vào năm 567 TCN, Nebuchadnezzar II gây chiến với Pharaoh [[Amasis II|Amasis]] và xâm lược [[Ai Cập]] trong một thời gian ngắn. Sau khi đế chế được bảo đảm, bao gồm việc kết hôn với một công chúa Media, ông dành hết tâm huyết để phát triển Babylon và thực hiện nhiều dự án xây dựng ấn tượng. Ông được cho là người xây dựng [[Vườn treo Babylon]] huyền thoại.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.worldwideschool.org/library/books/hst/ancient/HistoryofPhoenicia/chap22.html|tựa đề=World Wide Sechool|website=History of Phoenicia&nbsp;– Part IV|url lưu trữ=https://archive.is/20120918143341/http://www.worldwideschool.org/library/books/hst/ancient/HistoryofPhoenicia/chap22.html|ngày lưu trữ=2012-09-18|ngày truy cập=2007-01-09}}</ref>
 
[[Amel-Marduk]] kế vị và chỉ ở ngôi hai năm. Có ít ghi chép đương thời về triều đại của ông, mặc dù Berosus sau này cho rằng ông bị người kế nhiệm Neriglissar phế truất và sát hại vào năm 560 TCN vì "những hành vi sai trái".
 
Neriglissar (560-556 TCN) cũng có một triều đại ngắn ngủi. Ông là con rể của Nebuchadnezzar II, không rõ là người Chaldea hay người Babylon bản địa. Ông tấn công Aram và Phoenicia, thành công duy trì sự thống trị của Babylon ở những vùng này. Tuy nhiên, Neriglissar chết sớm. Con trai là Labashi-Marduk (556 TCN), vẫn còn là một cậu bé, kế vị và bị giết trong cùng năm bởi Nabodius.
 
Vị vua Babylon cuối cùng, Nabonidus (''Nabu-na'id'', 556-539 TCN), là con trai của nữ tư tế người Assyria Adda-Guppi, xuất thân từ [[Harran]] (Kharranu), kinh đô cuối cùng của Assyria. Thông tin liên quan đến Nabonidus có nguồn gốc chủ yếu từ một phiến đất sét có ghi niên hiệu của Nabonidus, và dòng chữ khắc ghi công ông xây dựng lại ngôi đền của Thần mặt trăng [[Tội lỗi|Sin]] tại Harran; cũng như trong tuyên cáo của [[Cyrus Đại đế|Cyrus]] được ban hành ngay sau khi ông chiếm được Babylonia.{{Sfn|Chisholm|1911|p=105}}
 
Nhiều yếu tố phát sinh dẫn đến sự sụp đổ của Babylon. Dân chúng Babylonia trở nên bất mãn với Nabonidus do ông quy tập toàn bộ hoạt động thờ phụng đa thần về đền thờ chính Marduk ở Babylon, dẫn đến bỏ bê giới tăng lữ địa phương. Ông cũng không được lòng quân đội do sở thích nghiên cứu khảo cổ của mình. Nabonidus có vẻ đã để cho con trai Belshazzar (một vị tướng có khả năng nhưng kém về ngoại giao, không được lòng giới tinh hoa chính trị) nhiếp chính, còn mình thì mải khai quật ghi chép lưu trữ của các đền thờ và xác định ngày tháng xây dựng.{{Sfn|Chisholm|1911|p=105}} Ông cũng dành nhiều thời gian bên ngoài Babylon, xây dựng lại các ngôi đền ở thành phố Harran của Assyria, hoặc ở tại các vùng chư hầu Ả Rập trong các sa mạc ở phía nam Lưỡng Hà. Nguồn gốc Assyria của Nabonidus và Belshazzar cũng có thể khiến cho sự phẫn nộ gia tăng. Ngoài ra, các thế lực quân đội tại Lưỡng Hà thường tập trung ở các vùng Assyria cũ, nhưng không còn Assyria kiềm chế, khiến cho Babylonia ở vào thế không được phòng thủ và dễ bị xâm chiếm hơn so với phía bắc.
 
Vào năm thứ sáu triều Nabonidus (549 TCN), [[Cyrus Đại đế]], "vua của Anshan" người Achaemenid Ba Tư ở Elam, đã nổi dậy chống lại ách thống trị của [[Astyages]], "vua của Manda" hoặc Media, tại Ecbatana. Quân đội của Astyages ngả theo phe Cyrus. Đế chế Media sụp đổ và người Ba Tư thành bá chủ của các dân tộc Iran.{{Sfn|Chisholm|1911|pp=105–106}} Ba năm sau, Cyrus trở thành vua của Ba Tư và dập tắt cuộc nổi dậy của người Assyria. Trong khi đó, Nabonidus đã lập doanh trại ở sa mạc thuộc địa Ả Rập của mình, gần biên giới phía nam vương quốc, để lại con trai Belshazzar (''Belsharutsur'') chỉ huy quân đội.
 
Năm 539 TCN, Cyrus xâm chiếm Babylonia. Vào tháng 6, Opis bị chiếm; ngay sau đó Sippar đầu hàng. Nabonidus chạy về Babylon, và bị Gobryas bắt giữ. Vào ngày 16 lịch Tammuz, hai ngày sau khi Sippar đầu hàng, "binh sĩ của Cyrus vào Babylon mà không gặp phải sự kháng cự nào." Cho đến tận ngày 3 của ''Marchesvan'' (tháng Mười) Cyrus mới đến, trong thời gian đó Gobryas thay mặt cho ông và được phong làm tổng trấn của tỉnh Babylon. Vài ngày sau đó Belshazzar tử trận. Tang lễ được tổ chức kéo dài 6 ngày, con trai của Cyrus là [[Cambyses II|Cambyses]] đi cùng lễ rước thi hài nhập táng.{{Sfn|Chisholm|1911|p=106}}
 
Một trong những đạo luật đầu tiên của Cyrus là cho phép những người lưu vong Do Thái trở về nhà. Qua đó Cyrus thể hiện mình chính thức sở hữu ngai vàng Babylon.{{Sfn|Chisholm|1911|p=106}}
 
Cyrus tuyên bố là người thừa kế hợp pháp của các vị vua Babylon cổ đại và là kẻ báo thù cho thần Marduk, người đã rất phẫn nộ trước sự bất kính của Nabonidus khi đem các tượng thần địa phương khỏi đền thờ gốc của họ tới thủ đô Babylon.{{Sfn|Chisholm|1911|p=106}}
 
Tộc Chaldea đã mất quyền kiểm soát Babylonia trong nhiều thập kỷ trước khi kết thúc thời đại mang tên họ, và họ dường như đã hòa nhập với thường dân Babylonia từ trước đó (ví dụ, Nabopolassar, Nebuchadnezzar II và những người kế vị đều tự xưng là ''Shar Akkad'' chứ không phải là ''Shar Kaldu'' trên các dòng chữ khắc). Trong [[Đế quốc Achaemenes|Đế chế Achaemenid]] của Ba Tư, thuật ngữ ''Chaldea'' đã không còn dùng để chỉ một chủng tộc người, mà thay vào đó là đẳng cấp tu sĩ có học vấn về văn học cổ điển Babylon, cụ thể là Thiên văn học và Chiêm tinh. Vào giữa thời [[Vương quốc Seleukos|Đế chế Seleucid]] (312 Th150 TCN), thuật ngữ này cũng đã không còn được sử dụng.
 
=== Babylon thời Ba Tư ===
[[Tập tin:Xerxes_I_tomb_Babylonian_soldier_circa_470_BCE.jpg|nhỏ| Binh sĩ Babylon trong [[Đế quốc Achaemenes|quân đội Achaemenid]], k. 480 TCN. Phù điêu lăng [[Xerxes I|Xerxes I.]] ]]
Babylonia bị sáp nhập vào [[Đế quốc Achaemenes|Đế chế Achaemenes]] vào năm 539 TCN.
 
Một năm trước khi chết, vào năm 529 TCN, Cyrus phong con trai mình là [[Cambyses II]] làm vua Babylon, còn ông giữ danh hiệu đầy đủ hơn là "vua của các tỉnh (khác)" của đế chế. Chỉ cho đến khi [[Darius I]] lên ngôi và đặt [[Hỏa giáo]] làm quốc giáo, thì truyền thống coi ngai vàng Babylon là điều kiện bắt buộc để trị vì chính danh ở Tây Á mới ngừng được thừa nhận.{{Sfn|Chisholm|1911|p=106}}
 
Sau khi Darius giành được Ba Tư, Babylon đã nhanh chóng giành độc lập về tay người bản địa. Nidinta-Bel, lấy tên là Nebuchadnezzar III, trị vì từ tháng 10 năm 522 TCN cho đến tháng 8 năm 520 TCN, Daris chiếm lại thành phố. Assyria ở phía bắc cũng nổi loạn. Vài năm sau, có lẽ là 514 TCN, Babylon lại nổi dậy dưới thời vua [[Người Armenia|Armenia]] Nebuchadnezzar IV; lần này sau khi bị người Ba Tư đánh hạ, các bức tường thành đã bị phá hủy một phần. Tuy nhiên, ngôi đền lớn Esagila vẫn được tu sửa và là một trung tâm tôn giáo của người Babylon.{{Sfn|Chisholm|1911|p=106}}
 
[[Alexandros Đại đế|Alexander Đại đế]] chinh phục Babylon vào năm 333 TCN cho người Hy Lạp, và qua đời ở đây vào năm 323 TCN. Babylonia và Assyria sau đó trở thành một phần của [[Vương quốc Seleukos|Đế chế Seleucid]] của Hy Lạp. Lâu nay nhiều người tin rằng một phần dân số chuyển đến [[Seleucia]], thủ đô mới của nam Lưỡng Hà, và những tàn tích của Babylon cũ bị khai thác đá để xây dựng chính quyền mới,{{Sfn|Chisholm|1911|p=106}} nhưng ấn phẩm gần đây của ''Biên niên sử Babylon'' đã chỉ ra rằng cuộc sống thành thị tại đây vẫn như cũ cho đến thời [[Đế quốc Parthia|Đế chế Parthia]] (150-226 CN). Vua [[Mithridates I của Parthia|Mithridates]] của Parthia đã chinh phục và sáp nhập vùng này vào Đế quốc Parthia vào năm 150 TCN. Khu vực này trở thành một chiến trường giữa người Hy Lạp và Parthia.
 
Có một thời gian ngắn khu vực bị [[Đế quốc La Mã|La Mã]] chinh phạt (tỉnh Assyria và Lưỡng Hà thuộc La Mã; 116-118 CN) dưới thời [[Traianus|Trajan]], sau đó người Parthia giành lại quyền kiểm soát.
 
[[Satrap]] Babylon được sáp nhập vào vùng Asōristān (có nghĩa là ''xứ Assyria'' trong [[tiếng Ba Tư]]) thuộc [[Đế quốc Sasan|Đế quốc Sasanian]] vào năm 226 CN, và đến thời điểm này, Kitô giáo Đông Syria (khởi nguồn ở Assyria và Thượng Lưỡng Hà) đã trở thành tôn giáo chính trong cộng đồng người Assyria-Babylon bản địa. Nhóm người này chưa bao giờ dung nhập [[Hỏa giáo]] hay [[Tôn giáo Hy Lạp cổ đại|tôn giáo Hy Lạp]] và ngôn ngữ của những kẻ cai trị.
 
Ngoại trừ các thành bang [[Đế quốc Tân Assyria|Tân Assyria]] nhỏ độc lập từ thế kỷ 2 TCN đến thế kỉ 3 CN: Adiabene, Osroene, [[Assur]], Beth Garmai, Beth Nuhadra và [[Hatra]] ở phía bắc, Lưỡng Hà bị Ba Tư đô hộ cho đến cuộc chinh phục Ba Tư của người Hồi giáo [[Người Ả Rập|Ả Rập]] trong thế kỷ 7 CN. Asōristān bị giải thể năm 637 CN, dân cư nói tiếng Đông Aram và phần lớn theo Kitô giáo ở miền Nam và Trung Lưỡng Hà (với ngoại lệ Mandea) dần dần bị Ả Rập hóa và Hồi giáo hóa; ngược lại, vùng Bắc Lưỡng Hà vẫn duy trì truyền thống Assyria cho đến tận ngày nay.
 
== Văn hóa ==
Văn hóa Lưỡng Hà thời đại đồ đồng đến thời đồ sắt sớm thường được gọi là văn hóa "Assyria-Babylonia", vì mối liên hệ chặt chẽ về dân tộc, ngôn ngữ và văn hóa của hai trung tâm chính trị. Thuật ngữ "Babylonia", đặc biệt là trong các tác phẩm từ khoảng đầu thế kỷ 20, trước đây cũng được sử dụng để bao gồm lịch sử ''tiền Babylon'' của Nam Lưỡng Hà chứ không chỉ mình thành bang Babylon sau này. Cách sử dụng địa lý của cái tên "Babylonia" nói chung đã được thay thế bằng thuật ngữ chính xác hơn là ''Sumer'' hoặc ''Sumer-Akkad'' trong các nghiên cứu gần đây khi đề cập đến nền văn minh Lưỡng Hà tiền Assyria-Babylonia.
[[Tập tin:Cylinder_Seal,_Old_Babylonian,_formerly_in_the_Charterhouse_Collection_09.jpg|nhỏ| Con dấu hình trụ Babylon cổ làm từ [[hematit]], cảnh Nhà vua hiến tế súc vật dâng lên [[Utu|Shamash]].<ref>Al-Gailani Werr, L., 1988. Studies in the chronology and regional style of Old Babylonian Cylinder Seals. Bibliotheca Mesopotamica, Volume 23.</ref> ]]
 
==== Nghệ thuật và kiến trúc ====
[[Tập tin:Man_and_woman,_Old-Babylonian_fired_clay_plaque_from_Southern_Mesopotamia,_Iraq.jpg|nhỏ| Hình nam và nữ, Cổ Babylon, phù điêu đất sét nung, Nam Lưỡng Hà, Iraq ]]
Ở Babylonia rất giàu [[đất sét]] nhưng thiếu [[đá]], dẫn đến việc hầu như mọi thứ đều sử dụng vật liệu [[gạch bùn]]; các đền thờ Babylon, Sumer và Assyria là những công trình kiến trúc khổng lồ bằng gạch thô được nâng đỡ bằng trụ, có cống thoát nước mưa. Ở [[Ur (thành phố)|Ur]] còn lại một cống thoát nước như vậy làm bằng [[chì]]. Việc sử dụng gạch đã dẫn đến sự phát triển các dạng đầu tiên của cột và cột bổ tường, cùng với [[bích họa]] và gạch men. Các bức tường được tô màu rực rỡ, đôi khi được dát [[kẽm]] hoặc [[vàng]], hoặc ốp [[Tấm lát|gạch men]]. Chụp ngọn đuốc bằng [[Terracotta|đất nung]] sơn màu cũng được làm từ khuôn thạch cao. Ở Babylon, thay cho phù điêu, người ta thường sử dụng tượng người ba chiều. Sự thiếu hụt về đá ở Babylon đã khiến cho đá cuối trở thành vật liệu quý giá, dẫn đến nghệ thuật cắt đá có kĩ thuật hoàn hảo cao độ.{{Sfn|Chisholm|1911|p=108}}
 
==== Y học ====
[[Tập tin:Medical_recipe_concerning_poisoning._Terracotta_tablet,_from_Nippur,_Iraq,_18th_century_BCE._Ancient_Orient_Museum,_Istanbul.jpg|nhỏ| Đơn thuốc liên quan đến ngộ độc. Phiến đất nung, từ Nippur, Iraq, thế kỷ 18 trước Công nguyên. Bảo tàng cổ đại phương Đông, Istanbul. ]]
Các văn bản lâu đời nhất của Babylon (bằng tiếng Akkad) về [[y học]] bắt nguồn từ triều đại Babylon đầu tiên trong nửa đầu [[Thiên niên kỷ 2 TCN|thiên niên kỷ thứ 2 trước Công nguyên]]<ref>{{Chú thích sách|url=https://archive.org/details/ancientmesopotam00aleo|title=Ancient Mesopotamia: Portrait of a Dead Civilization|last=Leo Oppenheim|publisher=University of Chicago Press|year=1977|page=[https://archive.org/details/ancientmesopotam00aleo/page/290 290]|url-access=registration}}</ref> mặc dù các đơn thuốc sớm nhất xuất hiện ở Sumer trong triều đại thứ ba của Ur.<ref>{{Chú thích tạp chí|last=R D. Biggs|year=2005|title=Medicine, Surgery, and Public Health in Ancient Mesopotamia|journal=Journal of Assyrian Academic Studies|volume=19|pages=7–18}}</ref> Tuy nhiên, văn bản y học Babylon chi tiết nhất là ''Cẩm nang Chẩn đoán'' được viết bởi một ''ummânū'', hay Đại học giả, Esagil-kin-apli của Borsippa, dưới triều đại của Adad-apla-iddina (1069).
 
''Cẩm nang Chẩn đoán'' đã giới thiệu các phương pháp [[Điều trị|trị liệu]] và bệnh lí, sử dụng [[Chủ nghĩa kinh nghiệm|phương pháp kinh nghiệm]], [[logic]] và [[lý tính]] trong chẩn đoán, tiên lượng và điều trị. Văn bản chứa một danh sách các [[Triệu chứng cơ năng|triệu chứng]] y khoa và [[quan sát]] chi tiết theo kinh nghiệm, cùng với các quy tắc logic kết hợp các triệu chứng quan sát được trên cơ thể [[bệnh nhân]] với chẩn đoán và tiên lượng.
 
Cùng với y học Ai Cập cổ đại cũng thời, người Babylon đã đưa ra các khái niệm [[Chẩn đoán y tế|chẩn đoán]], [[tiên lượng]], [[Khám sức khỏe|thực khám]] và [[Toa (y khoa)|kê đơn thuốc]]. Các triệu chứng và bệnh được điều trị thông qua các phương pháp trị liệu như [[Băng vết thương|băng bó]], bôi thuốc mỡ và uống thuốc. Nếu một bệnh nhân không thể được chữa khỏi về mặt thể chất, các y sĩ Babylon thường tiến hành [[trừ tà]] để thanh tẩy bệnh nhân khỏi [[Lời nguyền|nguyền rủa]]. Y học Babylon thời kì sau cũng tương tự với [[Y học Hy Lạp cổ đại|y học Hy Lạp]] thời kỳ đầu ở nhiều mặt. Đặc biệt, các chuyên luận đầu tiên của [[Hippocrates]] thể hiện ảnh hưởng của y học Babylon về cả nội dung và hình thức.<ref>{{Chú thích sách|title=West Meets East: Early Greek and Babylonian Diagnosis|last=M. J. Geller|work=Magic and rationality in ancient Near Eastern and Graeco-Roman medicine|publisher=[[Brill Publishers]]|year=2004|isbn=978-90-04-13666-3|editor-last=H. F. J. Horstmanshoff|pages=11–186|ref=harv|postscript=<!--None-->|editor-last2=Marten Stol|editor-last3=Cornelis Tilburg}}</ref>
 
==== Văn học ====
Hầu hết các thị trấn và đền thờ đều có thư viện; một câu ngạn ngữ cổ của người Sumer nói rằng "kinh sư ưu tú dậy từ lúc bình minh". Phụ nữ cũng như đàn ông được học đọc và viết,{{Sfn|Chisholm|1911|p=107}}<ref>Tatlow, Elisabeth Meier ''Women, Crime, and Punishment in Ancient Law and Society: The Ancient Near East'' Continuum International Publishing Group Ltd. (31 March 2005) {{ISBN|978-0-8264-1628-5}} p. 75 </ref> và trong thời kỳ Semit, việc này yêu cầu cả kiến thức về ngôn ngữ Sumer đã tuyệt chủng, và hệ thống âm tiết phức tạp và sâu rộng.{{Sfn|Chisholm|1911|p=107}}
 
Một lượng đáng kể văn học Babylon là tác phẩm dịch từ bản gốc Sumer, tôn giáo và luật pháp tiếp tục được viết bằng ngôn ngữ kết tụ cũ của Sumer. Từ vựng, ngữ pháp và bản dịch song ngữ được biên soạn để cho học trò sử dụng, cũng như các bài bình luận về các ghi chép cũ và giải thích các từ và cụm từ tối nghĩa. Người ta sắp xếp và đặt tên tất cả chữ cái kí âm, cũng như soạn thảo chúng thành các danh sách công phu.{{Sfn|Chisholm|1911|p=107}}
 
Có rất nhiều tác phẩm văn học Babylon đã được biết đến ngày nay. Nổi tiếng nhất trong số đó là [[Sử thi Gilgamesh]] nằm trong mười hai phiến đất sét, được biên soạn từ các văn bản tiếng Sumer bởi Sin-liqi-unsinni. Sử thi nói về những cuộc phiêu lưu của [[Gilgamesh]], vị vua bán lịch sử/thần thoại của Uruk, có thể được tổng hợp từ nhiều nguồn cổ xưa và các câu chuyện khác nhau.{{Sfn|Chisholm|1911|p=107}}
 
==== Thiên văn học ====
Các [[phiến đất sét]] có niên đại từ thời [[Đế quốc Cổ Babylon|Babylon cổ]] ghi lại việc ứng dụng toán học vào tính toán sự biến thiên độ dài của ngày trong một năm mặt trời. Hàng thế kỷ quan sát của người Babylon về các hiện tượng thiên thể được ghi lại trong các bảng [[Chữ hình nêm|chữ chữ hình nêm]] được gọi là 'Enūma Anu Enlil'. Văn bản thiên văn quan trọng lâu đời nhất cho đến nay là Phiến 63 của 'Enūma Anu Enlil', phiến Venus của Ammi-Saduqa, liệt kê những lần mọc đầu và cuối của Sao Kim trong khoảng 21 năm và là bằng chứng sớm nhất cho việc nhận thấy chu kì của một hành tinh. [[Thước trắc tinh]] hình chữ nhật cổ nhất có từ thời Babylon k. 1100 trước Công nguyên, goi là MUL. APIN, chứa các danh mục sao và chòm sao cũng như các sơ đồ dự đoán [[Mọc cùng Mặt Trời|mọc lúc rạng đông]] và đặc điểm của các hành tinh, độ dài của ban ngày được đo bằng [[đồng hồ nước]], gnomon, bóng và [[nhuận]]. Văn bản GU của Babylon sắp xếp các ngôi sao thành "chuỗi" nằm dọc các vòng [[xích vĩ]] để đo xích kinh độ hoặc khoảng thời gian, và cũng bao gồm cả các ngôi sao nằm ở thiên đỉnh, phân tách bằng các khác biệt về xích kinh độ.<ref name="pingree">{{Chú thích|isbn=978-0-19-814946-0}}</ref><ref name="practice">{{Chú thích sách|url=https://books.google.com/?id=nS51_7qbEWsC&pg=PA17&lpg=PA17&dq=babylon+greek+astronomy#PPA15,M1|title=The History and Practice of Ancient Astronomy|last=Evans|first=James|publisher=Oxford University Press|year=1998|isbn=978-0-19-509539-5|pages=296–297|access-date=2008-02-04}}</ref>
 
[[Đai Hoàng Đạo|Cung hoàng đạo]] là một phát minh của người Babylon thời cổ đại.<ref>Holden, James Herschel, 1996. A History of Horoscopic Astrology. AFA. <nowiki>ISBN 978-0-86690-463-6</nowiki>, tr. 1</ref> Có nhiêu văn bản chữ hình nêm ghi chép về các quan sát nhật thực gốc của người Lưỡng Hà.
 
Đến thời Tân Babylon, trong số các ngành khoa học, [[thiên văn học]] và [[chiêm tinh học]] vẫn chiếm một vị trí danh giá trong xã hội.{{Sfn|Chisholm|1911|p=107}} [[Thiên văn học Babylon]] là nền tảng cho [[thiên văn học Hy Lạp cổ đại]], [[Thiên văn học Ấn Độ|thiên văn học cổ điển Ấn Độ]], Sasan, [[Đế quốc Đông La Mã|Byzantine]] và Syria, thiên văn học Hồi giáo thời trung cổ, và thiên văn học ở [[Trung Á]] và [[Tây Âu]].{{Sfn|Chisholm|1911|p=107}} <ref name="pingree">{{Chú thích|isbn=978-0-19-814946-0}}</ref> Do đó, thiên văn học Tân Babylon có thể được coi là tiền thân trực tiếp của phần lớn [[Toán học Hy Lạp|toán học]] và thiên văn học [[Toán học Hy Lạp|Hy Lạp]] cổ đại, đến lượt nó lại là tiền thân lịch sử của [[Cách mạng khoa học|cuộc cách mạng khoa học]] châu Âu (phương Tây).<ref name="Aaboe, Asger">Aaboe, Asger. "The culture of Babylonia: Babylonian mathematics, astrology, and astronomy". The Assyrian and Babylonian Empires and other States of the Near East, from the Eighth to the Sixth Centuries B.C. Eds. John Boardman, I. E. S. Edwards, N. G. L. Hammond, E. Sollberger and C. B. F. Walker. Cambridge University Press, (1991)</ref>
 
Trong thế kỷ thứ 8 và 7 trước Công nguyên, các nhà thiên văn học Babylon đã phát triển một hướng tiếp cận mới đối với thiên văn học. Họ bắt đầu nghiên cứu [[triết học]] về bản chất lý tưởng của [[vũ trụ]] sơ [[Vũ trụ|khai]] và sử dụng logic nội tại trong hệ thống hành tinh dự đoán của họ. Đây là một đóng góp quan trọng cho thiên văn học và [[triết học khoa học]], một số học giả đã gọi phương pháp mới này là cuộc cách mạng khoa học đầu tiên.<ref name="Brown">D. Brown (2000), ''Mesopotamian Planetary Astronomy-Astrology'', Styx Publications, {{ISBN|90-5693-036-2}}.</ref> Cách tiếp cận mới này đối với thiên văn học đã được đón nhận và phát triển hơn nữa trong thiên văn học Hy Lạp cổ điển và Hy Lạp hóa.
 
Đến thời Seleucid và Parthia, các ghi chép thiên văn có tính khoa học toàn diện.{{Sfn|Chisholm|1911|p=107}} Sự phát triển phương pháp dự đoán chuyển động của các hành tinh của người Babylon được coi là một giai đoạn quan trọng trong [[lịch sử thiên văn học]].
 
Nhà thiên văn học Babylon duy nhất được biết đến là người ủng hộ mô hình [[Thuyết nhật tâm|nhật tâm]] là Seleucus của Seleucia (sinh 190 trước Công nguyên),<ref>[[Otto E. Neugebauer]] (1945). "The History of Ancient Astronomy Problems and Methods", ''Journal of Near Eastern Studies'' '''4''' (1), pp. 1–38.</ref><ref>[[George Sarton]] (1955). "Chaldaean Astronomy of the Last Three Centuries B.C.", ''Journal of the American Oriental Society'' '''75''' (3), pp. 166–173 [169].</ref><ref>William P. D. Wightman (1951, 1953), ''The Growth of Scientific Ideas'', Yale University Press p. 38.</ref> được nhắc đến trong các tác phẩm của [[Plutarchus|Plutarch]]. Ông cho rằng [[Hiện tượng tự quay của Trái Đất|Trái đất quay]] quanh trục của chính nó, và quay quanh [[Mặt Trời|Mặt trời]]. Theo [[Plutarchus|Plutarch]], Seleucus thậm chí đã chứng minh hệ thống nhật tâm, nhưng không rõ ông đã sử dụng những luận cứ nào.
 
==== Toán học ====
 
Babylonia dùng hệ thống số đếm [[Hệ lục thập phân|lục thập phân]]. Đây là nguồn gốc của cách sử dụng 60 giây một phút, 60 phút một giờ và 360 độ (60 × 6) một vòng tròn thời hiện đại. Người Babylon biết xác định [[Căn bậc hai của 2|căn bậc hai của hai]] chính xác đến bảy chữ số,biết về [[Định lý Pythagoras|định lý Pythagore]] từ trước [[Pythagoras]] (trên một phiến đất sét c. 1900 TCN)
 
Các ''ner'' 600 và ''sar'' 3600 được hình thành từ các đơn vị 60, tương ứng với một độ của [[Xích đạo|đường xích đạo]]. Họ cũng có kiến thức cơ học để sử dụng đồng hồ mặt trời, đồng hồ nước, đòn bẩy và ròng rọc. Một ống kính [[pha lê]] làm từ [[máy tiện]] đã được [[Austen Henry Layard]] phát hiện tại [[Nimrud]] cùng với những chiếc bình thủy tinh mang tên Sargon; ống kính này có thể được dùng trong việc quan sát bầu trời.{{Sfn|Chisholm|1911|pp=107–108}}
 
Người Babylon có thể đã quen thuộc với các quy tắc đo diện tích. Họ tính chu vi đường tròn bằng ba lần đường kính và diện tích bằng một phần mười hai bình phương của chu vi, điều này là đúng trong trường hợp lấy π bằng 3. Thể tích của một hình trụ là tích của đáy và chiều cao, tuy nhiên, thể tích của sự hình nón hoặc hình chóp vuông được tính không chính xác bằng chiều cao nhân với một nửa diện tích đáy. Ngoài ra, có một phát hiện gần đây tìm được một phiến đấy sét sử dụng số π bằng 3 và 1/8.
 
Người Babylon cũng có đơn vị dặm Babylon, tương đương với 11 km ngày nay. Đơn vị khoảng cách này cuối cùng được chuyển đổi thành đơn vị dặm thời gian, sử dụng để đo khoảng cách Mặt trời (Eves, Chương 2). Người Babylon cũng sử dụng biểu đồ không gian thời gian để tính vận tốc của [[Sao Mộc]]. Đây là một ý tưởng được coi là hiện đại, bắt nguồn từ Anh và Pháp thế kỷ 14 và dùng trong phép tính tích phân.<ref>{{Chú thích tạp chí|last=Ossendrijver|first=Mathieu|date=29 January 2016|title=Ancient Babylonian astronomers calculated Jupiter's position from the area under a time-velocity graph|url=http://science.sciencemag.org/content/351/6272/482.full|journal=Science|language=en|volume=351|issue=6272|pages=482–484|bibcode=2016Sci...351..482O|doi=10.1126/science.aad8085|pmid=26823423}}</ref>
 
==== Triết học ====
Nguồn gốc của triết học Babylon có thể bắt nguồn từ văn học hiền triết Lưỡng Hà thời kỳ đầu, thể hiện những triết lý nhất định của cuộc sống, đặc biệt là [[Đạo đức học|đạo đức]], trong các hình thức [[biện chứng]], [[Đối thoại (thể loại văn học)|đối thoại]], [[Sử thi|thơ sử thi]], [[Văn hóa dân gian|dân]] [[Thánh ca|ca]], [[thánh ca]], [[bài hát]], [[văn xuôi]], [[tục ngữ]]. [[Lý trí|Lý luận]] và [[lý tính]] của Babylon đã phát triển vượt ra ngoài quan sát [[Chủ nghĩa kinh nghiệm|thực nghiệm]]. <ref>Giorgio Buccellati (1981), "Wisdom and Not: The Case of Mesopotamia", ''Journal of the American Oriental Society'' '''101''' (1), pp. 35–47.</ref>
 
Có thể triết học Babylon có ảnh hưởng đến [[triết học Hy Lạp cổ đại]], đặc biệt là triết học Hy Lạp hóa. Văn bản Babylon ''Đối'' ''thoại của người bi quan'' có điểm tương đồng với các suy nghĩ chủ vận của các nhà ngụy biện và các học thuyết [[Heraclitus]] về sự tương phản, và các đối thoại của [[Platon|Plato]], cũng như là tiền chất cho phương pháp gợi hỏi của [[Sokrates|Socrates]].<ref>Giorgio Buccellati (1981), "Wisdom and Not: The Case of Mesopotamia", ''Journal of the American Oriental Society'' '''101''' (1), pp. 35–47 [43].</ref> Nhà triết học người Milesia [[Thales]] cũng được biết là đã nghiên cứu triết học ở Lưỡng Hà.
 
== Di sản ==
Babylonia, và đặc biệt là kinh đô Babylon, từ lâu đã có vị trí trong [[Các tôn giáo khởi nguồn từ Abraham|các tôn giáo Abraham]] như một biểu tượng của thừa mứa và bất công. Trong [[Kinh Thánh|Kinh thánh]] có nhiều đoạn nhắc đến Babylon, theo cả nghĩa đen (lịch sử) và ngụ ngôn. Các đề cập trong [[Kinh Thánh Hebrew|Tanakh]] có xu hướng mang tính lịch sử hoặc tiên tri, trong khi các đề cập về ngày tận thế trong [[Tân Ước]] về Con điếm thành Babylon thì theo nghĩa ẩn dụ, hoặc có thể là để ám chỉ thành Rome ngoại đạo, hoặc một số hình mẫu khác. [[Vườn treo Babylon|Vườn treo Babylon huyền thoại]] và [[Tháp Babel]] được xem là biểu tượng của sự xa hoa và lạm dụng quyền lực.
 
Những người Kitô giáo đầu tiên đôi khi gọi Rome là Babylon: Sứ đồ [[Thánh Phêrô|Peter]] kết thúc lá thư đầu tiên của mình bằng lời khuyên: "Cô ấy ở Babylon [Rome], cũng được chọn như bạn, gửi đến bạn lời chào, và con trai tôi Mark cũng vậy." ({{Bibleverse|1 Peter|5:13|NIV}}).
 
 
Babylon cũng được nhắc đến trong [[Qur’an|kinh Quran]] khổ 102 chương 2 của Surah Baqarah (Con bò).<ref>The Qur'an. Center for Muslim–Jewish Engagement, University of Southern California. 2008. Archived from the original on 18 June 2017.</ref><div style="padding-left: 3em; padding-right:0em; overflow: hidden; "><br /><br /></div>
 
== Ghi chú ==
{{Tham khảo|group=n}}
 
== Dẫn nguồn ==
{{Tham khảo}}
 
== Thư mục ==
 
* Theophilus G. Pinches, [http://www.sacred-texts.com/ane/rbaa.htm Tôn giáo của Babylonia và Assyria] (Tên của nhiều vị thần hiện được đọc khác nhau, nhưng tác phẩm chi tiết năm 1906 này là một tác phẩm kinh điển.)
* Chisholm, Hugh, ed. (1911). "Tôn giáo Babylon và Assyria". Encyclopædia Britannica (tái bản lần thứ 11). Nhà xuất bản Đại học Cambridge.
* {{cite EB9|last=Sayce|first=Archibald Henry|author-link=Archibald Henry Sayce|wstitle=Babylon–Babylonia|volume=3|pages=182–194}}
* Herbermann, Charles, ed. (1913). "Babylonia". Bách khoa toàn thư Công giáo. New York: Công ty Robert Appleton.
* Các tập tin lịch sử [http://www.historyfiles.co.uk/MainFeaturesMesopotamia.htm Lưỡng Hà cổ đại]
* [http://fax.libs.uga.edu/BM530xK531l/ Truyền thuyết về Babylon và Ai Cập liên quan đến truyền thống tiếng Do Thái], của Leonard W. King, 1918 ''(một bản fax có thể tìm kiếm tại Thư viện Đại học Georgia ; [[DjVu]] & định dạng [http://fax.libs.uga.edu/BM530xK531l/1f/legends_of_babylon_and_egypt.pdf PDF])''
* [http://fax.libs.uga.edu/BL1620xB7/ Truyền thuyết Babylon về sự sáng tạo] và cuộc chiến giữa Bel và con rồng, như được kể bởi Assyrian Tablets từ Nineveh, 1921 ''(một bản fax có thể tìm kiếm tại Thư viện Đại học Georgia; [[DjVu]] & định dạng [http://fax.libs.uga.edu/BL1620xB7/1f/babylonian_legends_of_creation.pdf PDF])''
* [http://fax.libs.uga.edu/DS71xJ39C/ Nền văn minh của Babylonia và Assyria] ; phần còn lại, ngôn ngữ, lịch sử, tôn giáo, thương mại, luật pháp, nghệ thuật và văn học của Morris Jastrow, Jr.... với bản đồ và 164 hình minh họa, 1915 ''(một bản fax có thể tìm kiếm tại Thư viện Đại học Georgia; [[DjVu]] & định dạng [http://fax.libs.uga.edu/DS71xJ39C/1f/civilization_of_babylonia_and_assyria.pdf PDF] hoặc [httpw: //www.wisdomlib.org/mesopotamian/book/the-civilization-of-babylonia-and-assyria/index.html HTML có thể đọc])''
 
== Liên kết ngoài ==
 
* [http://ancientneareast.tripod.com/Old_Kingdom_of_Babylonia.html Thời kỳ Babylon cổ đại]
* [https://www.wisdomlib.org/mesopotamian/book/from-under-the-dust-of-ages/index.html Từ dưới Bụi đời] của ''William St. Chad Boscawen''
* [https://www.wisdomlib.org/mesopotamian/book/the-chaldean-account-of-genesis/index.html Tài khoản Chaldean về Genesis] của ''George Smith''
* [http://www.math.tamu.edu/~don.allen/history/babylon/babylon.html Toán học Babylon]
* [http://www-groups.dcs.st-andrews.ac.uk/~history/HistTopics/Babylonian_numerals.html Chữ số Babylon]
* [http://www.halloran.com/babylon1.htm Thiên văn học / Chiêm tinh học Babylon]
* [http://www.staff.science.uu.nl/~gent0113/babylon/babybibl.htm Tài liệu tham khảo về thiên văn học / chiêm tinh học Babylon]
* Ghi chép của các học giả hiện đại đọc thơ Babylon bằng ngôn ngữ gốc ([http://www.speechisfire.com/ http://www.speechisfire.com]).
[[Thể loại:Lịch sử Tây Á]]
[[Thể loại:Lịch sử Kuwait]]
[[Thể loại:Cựu quốc gia quân chủ ở Châu Á]]
[[Thể loại:Levant cổ đại]]
[[Thể loại:Khởi đầu thiên niên kỷ 2 TCN]]
[[Thể loại:Babylonia]]