Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đinh Cơ”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi |
nKhông có tóm lược sửa đổi |
||
Dòng 28:
Năm thứ 2 ([[7 TCN]]), ngày [[4 tháng 4]] (âm lịch), Thái tử Lưu Hân tức vị, sử gọi [[Hán Ai Đế]]<ref>《汉书·卷十一·哀帝纪第十一》:绥和二年三月,成帝崩。四月丙午,太子即皇帝位,谒高庙。</ref>. Hán Ai Đế Lưu Hân kế vị với tư cách làm con của Hán Thành Đế, nên xem Thái hậu [[Vương Chính Quân]] là [[Thái hoàng thái hậu]], Triệu hoàng hậu là mẫu hậu nên tôn làm [[Hoàng thái hậu]], còn mẹ ruột Đinh Cơ cùng tổ mẫu ruột là [[Phó chiêu nghi (Hán Nguyên Đế)|Phó Thái hậu]] không được đề cập.
Khoảng 10 ngày sau khi đăng cơ, Hán Ai Đế đón tổ mẫu cùng thân mẫu đến [[Vị Ương cung]]. Nhưng do đích-thứ khác biệt, Phó Thái hậu cùng mẹ ruột Ai Đế là Đinh Cơ ngoài đãi ngộ ra thì vẫn chỉ giữ vị hiệu khi còn ở Định Đào, do Hoàng thái hậu và Thái hoàng thái hậu chỉ có một mà không thể thêm người khác, chính điều này đã dấy lên nỗi bính bình của Hán Ai Đế, cũng như là đề tài tranh luận trong triều đình. Khi đó Cao Xương hầu [[Đổng Hoành]] (董宏) tấu lên, lấy ''"Mẫu dĩ Tử quý"'' (母以子贵) làm lý lẽ, cẩn tôn Đinh Cơ làm Đế Thái hậu. Dưới áp lực của Đại tư mã [[Vương Mãng]], cùng [[Khổng Quang]] và [[Sử Đan]], Đổng Hoành bị cắt chức lưu đày, nhưng Hán Ai Đế sau đó liền đến Trường Tín cung, xin dâng thụy hiệu cho Lưu Khang làm '''Cung Hoàng'''. Rồi cuối cùng, vào ngày [[19 tháng 5]] (âm lịch) cùng năm đó, Hán Ai Đế Lưu Hân dựa vào đó mà ra chỉ phong cho Phó Thái hậu tước hiệu '''Cung Hoàng thái hậu''' (恭皇太后), còn Đinh Cơ mẹ của Ai Đế được phong làm '''Cung Hoàng hậu''' (恭皇后), đều lấy thụy hiệu của Định Đào Cung vương Lưu Khang làm hiệu, để tỏ rõ phân biệt. Trong chiếu có viết:「''"
Năm Kiến Bình thứ 2 ([[5 TCN]]), [[tháng 4]], Đinh Cơ được cải hiệu thành '''Đế thái hậu''' (帝太后), chỗ ở tôn gọi là [[Trung An cung]] (中安宮), chiếu viết:「''"Hán gia chế pháp, thân thuộc vì hiển quý mà được gia tôn, huy hiệu của Định Đào Cung hoàng nay không nên tiếp tục dùng chữ Định Đào nữa. Nên tôn Cung Hoàng thái hậu làm Đế thái thái hậu, Cung Hoàng hậu làm Đế thái hậu"''」. Hai người anh trai; [[Đinh Trung]] (丁忠) mất sớm nên truy tặng làm ''Bình Chu Hoài hầu'' (平周怀侯), lấy con trai là [[Đinh Mãn]] (丁满) tập tước; [[Đinh Minh]] (丁明) phong tước ''Dương An hầu'' (阳安侯), làm quan đến [[Đại tư mã]] kiêm ''Phiêu Kị tướng quân'' (票骑将军). Hai người chú của bà là [[Đinh Vọng]] (丁望) làm đến ''Tả tướng quân'' (左将军), [[Đinh Hiến]] (丁宪) nhậm ''Thái bộc'' (太仆)
Cùng năm ấy, ngày [[5 tháng 6]] (âm lịch), Đế thái hậu Đinh thị qua đời, không rõ bao nhiêu tuổi. Hán Ai Đế ra chỉ:''"Trẫm nghe phu thê là một thể. [[Kinh Thi]] viết:"Cốc tắc dị thất, Tử tắc đồng huyệt". [[Quý tôn Túc|Quý Vũ tử]] [[nước Lỗ]] ngày xưa táng ở tẩm lăng, nhưng mộ của chính thê Đỗ thị lại ở bậc dưới, nên con cháu cẩn xin hợp táng. Lễ phụ táng, từ thời Chu triều đã có. [[Khổng Tử]] nói:"Chu triều điển nghi đã rất hoàn bị! Ta chỉ cần nên tuân theo". Là con có hiếu, thì đối đãi người chết và người khi sống là như nhau. Nay Đế Thái hậu nên cùng một lăng với Cung Hoàng."''<ref>《汉书·卷九十七下·外戚传第六十七下》:建平二年,丁太后崩。上曰:“《诗》云‘谷则异室,死则同穴’。昔季武子成寝,杜氏之墓在西阶下,请合葬而许之。附葬之礼,自周兴焉。孝子事亡如事存,帝太后宜起陵恭皇之园。”遣大司马票骑将军明,东送葬于定陶,贵震山东。</ref>. Do đó, Ai Đế làm lễ hợp táng rất long trọng cho Đinh Thái hậu, phái cữu cữ Đinh Minh lo liệu tất cả.
|