Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chùa Tōdai”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 7:
 
== Lịch sử ==
=== Bối cảnh ===
Ở địa điểm nay là Đông Đại Tự, trước kia có chùa Kinshōsen-ji (金鐘山寺 Kim Chung Sơn Tự) do Nhật hoàng Shōmu (聖武天皇 Thánh Vũ Thiên hoàng) sắc dựng năm 743 sau khi một vị hoàng tử chết yểu. Sau đó [[Thiên hoàng|Nhật hoàng]] lại truyền chọn chùa Kim Chung làm nơi thờ Phật ở cấp tỉnh. Tình hình triều chính lúc bấy giờ gặp nhiều xáo trộn sau nạn dịch lớn bệnh [[đậu mùa]], nông vụ bị mắt mùa rồi lại có loạn khiến triều đình phải thiên đô bốn lần.<ref>Hall, John W., ''et al.'', eds. (1988). ''The Cambridge history of Japan,'' pp. 398-400.</ref>
Vào [[thời kỳ Nara]], nền văn hóa Trung Hoa đã tạo ảnh hưởng rất lớn đến Nhật Bản khi mà sự vinh quang của [[nhà Đường]] đã gây ấn tượng mạnh mẽ đối với quốc đảo này.<ref name="Swann67.45">{{harvsp|Swann|1967|p=45-46}}.</ref> Do đó, chính quyền trung ương gắn liền với tầng lớp quý tộc được mô phỏng theo mô hình quan liêu rộng lớn của Trung Quốc và Phật giáo bắt đầu truyền bá rộng rãi trên khắp quần đảo khiến nhu cầu xây dựng hình ảnh ngoan đạo trở thành điều thiết yếu.<ref name="Murase96.50">{{harvsp|Murase|1996|p=50}}</ref> Đối mặt với gánh nặng hành chính ngày một tăng, triều đình đã chọn Bình Thành Kinh (平城京, ''[[Heijō-kyō]]''), tức [[Nara|Nại Lương]] ngày này, làm kinh đô cố định mới vào năm 710.<ref name="Swann67.45"/> Sự thiên đô tới Nara cũng bắt đầu niên hiệu Thiên Bình (天平, ''Tenpyō'') của [[Thiên hoàng Shōmu|thiên hoàng Thánh Vũ]], một giai đoạn mà rất nhiều công trình liên quan đến Phật giáo được dựng lên. Những ngôi đền đồ sộ này có ảnh hưởng rất quan trọng đối với bách tính, khi họ coi tôn giáo mới này là nguồn bảo vệ mạnh mẽ cho đất nước.<ref name="Ienaga79.41">{{chú thích sách|author1=Saburō Ienaga|title=Japanese art : a cultural appreciation|date=1979|publisher=Weatherhill|isbn=978-0834810297|pages=41-42|edition=1st English|language=en|chapter=30}}</ref>
 
Thiên hoàng Thánh Vũ cũng chính là người đặt nền móng cho Đông Đại Tự. Chịu ảnh hưởng từ sự vinh quang của Trung Thổ Đại Đường và bản thân cũng là một ngưởi bảo vệ Phật giáo nhiệt thành, ông khao khát tăng cường quyền lực cũng như sự thống nhất của quốc gia, với mong muốn mang lại cho Thiên hoàng một vai trò trung tâm và thiết yếu hơn trong đời sống chính trị Nhật Bản vốn bị nhiều gia tộc và thế lực khác nhau khống chế.<ref name="Mino86.20">{{harvsp|Mino|Rosenfield|Coaldrake|Morse|1986|p=20}}.</ref> Kể từ những năm thập niên 730, ông đã cho khởi công một số lượng lớn công trình xây dựng trên khắp bán đảo Nhật Bản. Năm 741, vì muốn dựa vào triết lý Phật giáo hộ quốc để trấn an mọi người, Thiên hoàng hạ chiếu lập những ngôi chùa ở mỗi địa phương gọi là [[Quốc phần tự]] (国分寺, ''kokubun-ji'') và chùa sư nữ địa phương (''kokubunni-ji'') trên tất cả mọi [[Tỉnh của Nhật Bản (cũ)|tỉnh thành của Nhật Bản]].<ref name="Shimizu01.68">{{harvsp|Shimizu|2001|p=68}}.</ref> Mỗi ngôi chùa đều phải có một tòa tháp bảy tầng dựng lên bên cạnh và bắt buộc phải lưu trữ 10 bản sao [[Kinh Diệu Pháp Liên Hoa]] và 10 bản khác của [[Kinh Kim Quang Minh]] để đảm bảo an sinh của đất nước. Chính sách này được ban hành như là phản ứng với dịch [[đậu mùa]] đã hoành hành tại kinh đô trong các năm 735 và 737, cũng như [[Biến loạn Fujiwara no Hirotsugu|cuộc nổi loạn của Đằng Nguyên Quảng Tự]] (藤原広嗣, ''Fujiwara no Hirotsugu)'' và nạn đói.<ref name="Brown93.250">{{harvsp|Brown|1993|p=250-252}}.</ref> Thiên hoàng có kế hoạch dựng lên một ngôi chùa lớn để tài trợ cho các ngôi chùa địa phương. Vào năm 743, ông đã giáng chiếu dựng một ngôi điện và một bức tượng [[Tỳ Lô Giá Na Phật]] (''Rushana'') khổng lồ bằng đồng dát vàng: đó chính là Đông Đại Tự.<ref name="Kobayashi75.22">{{harvsp|Kobayashi|1975|p=22}}.</ref> Là một Phật tử nhiệt thành, Thiên hoàng Thánh Vũ theo đuổi tầm nhìn của mình về một Nhật Bản tập trung cả về các vấn đề chính trị và tôn giáo, để củng cố quyền lực của mình đối với các tỉnh và các gia đình quý tộc khác nhau.<ref>{{chú thích sách|last1=Morse|first1=Samuel C.|editor1-first=Grove's Dictionaries|title=Japan, Sculpture, Nara Period|isbn=9781884446009|pages=113-116|accessdate=2020-04-29|language=en|chapter=17|date=1996}}</ref> Đối với ông, triều đình và thiên hoàng phải cai trị đất nước giống như Đông Đại Tự phải chiếm vị trí trung tâm trong số tất cả các ngôi chùa.<ref name="Murase96.49">{{harvsp|Murase|1996|p=49}}.</ref> Do đó, sự lựa chọn Phật Tỳ Lô Giá Na không phải là tầm thường, vì ngài biểu hiện cử chỉ sáng suốt cao tuyệt, hay tâm thức vũ trụ, tức là Phật trí thức siêu việt và trong [[Mạn-đà-la]], ngài tọa vị trí trung tâm.<ref name="Mino86.20" /> Song song với Phật Tỳ Lô Giá Na, trên thực tế, Thiên hoàng Thánh Vũ muốn đề xuất tầm quan trọng của thiên hoàng (ở trung tâm của đất nước) và Phật giáo, một mô hình giống với mô hình của nhà Đường.<ref name="Herail86.76">{{chú thích sách|last1=Hérail|first1=Francine|title=Histoire du Japon : des origines à la fin de l'époque Meiji. 1, Matériaux pour l'étude de la langue et de la civilisation japonaises.|date=1986|publisher=Publications Orientalistes de France|isbn=9782716902380|pages=76-77|language=fr}}</ref><ref name="Coaldrake96.76">{{harvsp|Coaldrake|1996|p=76}}.</ref> Ngôi chùa đã trở thành trung tâm của [[Hoa Nghiêm tông]] (華嚴宗, ''kegon-shū''), một trong sáu tông phái Phật giáo ở Nại Lương được Thiên hoàng ưu ái vì giáo pháp gần giống với mô hình lý tưởng của một quốc gia Phật giáo tập quyền.<ref name="Mason05.59">{{harvsp|Mason|Dinwiddie|2005|p=59}}.</ref>
[[Thời kỳ Nara|Thời đại Nara]] triều đình cho đặt chức Sōgō (僧綱 Tăng cương). Vị này trụ trì ở Đông Đại Tự, giám sát các tỉnh tự (chùa cấp tỉnh) và sáu Phật phái gồm Hossō (法相 Pháp tướng), Kegon (華厳 Hoa nghiêm), Jōjitsu (成實 Thành thực), Sanron (三論 Tam luận), Ritsu (律 Luật) and Kusha (倶舎 Cụ xá). Sáu phái cũng cử đại diện lưu trú ở Đông Đại Tự chăm nom chùa am và văn khố của mỗi phái.<ref name="abe">{{chú thích sách | last = Abe | first = Ryuichi | title = The Weaving of Mantra: Kukai and the Construction of Esoteric Buddhist Discourse | publisher = Columbia University Press | year = 1999 | isbn = 0231112866 | page=35, 55}}</ref>
 
=== Quá trình xây dựng ===
[[File:Heijokyo - carte des principaux édifices.svg|nhỏ|upright=1.3|alt=Carte de l’ancienne Nara avec le Tōdai-ji indiqué dans le coin supérieur droit|<!-- Carte de l’ancienne Nara, le Tōdai-ji figurant au nord-est de la ville (cliquer pour agrandir) -->.位於城市東北的東大寺古奈良地圖(點擊放大]]
Vào năm 742, một cơ quan đã được thiết lập với nhiệm vụ sao chép kinh Phật sử dụng trong ngôi chùa tương lai.<ref name="Shimizu01.68"/> Ti xây dựng chùa Đông Đại tự (gọi là "Tạo Đông Đại tự ti" 造東大寺司, ''Zō Tōdai-ji shi'') cũng được thiết lập phục vụ cho việc xây dựng chùa. Tuy việc thành lập những cơ quan xây dựng này không phải là một điều hiếm vào thời bấy giờ, nhưng có một điểm khiến Đông Đại tự khác với những ngôi chùa khác: Đó chính là vì quy mô quá lớn của nó. Chính điều này cũng đã biến Tạo Đông Đại tự ti trở thành cơ quan điều hành lớn nhất thế kỷ thứ 8 do việc xây dựng ngôi chùa này đòi hỏi một lượng lớn nhân công.<ref>{{Harvsp|Piggott|1987|p=128, 136-142}}.</ref>
 
Địa điểm ban đầu được chọn cho chùa là nơi mà trước có chùa Koga-ji, thuộc tỉnh Omi nằm ở phía bắc Nại Lương. Công việc xây dựng được bắt đầu dưới sự giám sát của [[Kuninaka no Kimimaro|Quốc Trung Công Ma Lữ]] (国中公麻呂, ''Kuninaka no Kimimaro'').<ref name="Shimizu01.69">{{harvsp|Shimizu|2001|p=69}}.</ref> Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng do gặp phải một loạt những điều cũng như tai nạn ngoài ý muốn, Thiên hoàng Thánh Vũ đã quyết định dời nơi thi công về Nại Lương vào năm 745.<ref name="Brown93.256">{{harvsp|Brown|1993|p=254-256}}.</ref> Địa điểm được chọn của Đông Đại tự trước kia là một ngôi chùa nhỏ tên là Kim Chung Sơn tự (金鐘山寺, ''Kinshōsen-ji'') nằm phía đông kinh thành. Trên thực tế, trong thành Nại Lương không có chỗ nào đủ rộng để chứa được một công trình kiến trúc đồ sộ như thế.<ref name="Shimizu01.69"/>
 
Công trình đầu tiên của chùa, [[Pháp Hoa đường]] (法華堂, ''Hokke-dō'') được hoàn thành vào năm 746.<ref name="Shimizu01.69"/> Quá trình thực hiện tượng Đại Phật và[Đại Phật điện (tòa chính điện của chùa, nơi đặt pho tượng Đại Phật) nằm trong khoảng thời gian từ năm 747 đến 752 không tính đến thời gian được dùng để mạ vàng xung quanh. Những bản phác thảo đầu tiên của tòa Đại Phật điện khổng lồ được đưa ra vào năm 748.<ref name="Brown93.256" /> Tuy nhiên, quá trình xây dựng vẫn được tiếp tục nhiều năm sau năm 752. Các khu hậu viên, hậu cung chùa, nơi ở của sư, kho lương thực và nơi cầu nguyện, cũng như việc đào ao vẫn được tiếp tục.<ref name="Mino86.69">{{harvsp|Mino|Rosenfield|Coaldrake|Morse|1986|p=69}}.</ref> Vì chùa nằm ngay dưới chân đồi Nhược Thảo (若草, ''Wakakusa''), dân phu buộc phải san phẳng chân đồi một đoạn dài 700 mét thành 4 bãi đất phẳng lớn.<ref name="Coaldrake96.77">{{harvsp|Coaldrake|1996|p=77}}.</ref> Những công trình này ngốn khá nhiều ngân khố của Nhật Bản, vì nó tiêu tốn hết số thuế của khoảng 5.000 hộ dân cũng như một khoản quyên góp không hề nhỏ khác.<ref name="Brown93.257">{{harvsp|Brown|1993|p=257}}.</ref>
 
[[File:Japan 070416 Todaiji 10.jpg|nhỏ|trái|alt=Statue en bronze assise massive vue en contre-plongée, avec un autel au premier plan.|Mặt trước của pho tượng Phật Tỳ Lô Giá Na, cao 14.98 mét.]]
 
Ba nhà sư đóng vai trò quyết định trong việc thành lập Đông Đại tự và cùng với Thiên hoàng Thánh Vũ, họ thường được xem là bốn vị thánh đã sáng lập nên ngôi chùa. Ba vị này bao gồm:
* [[Lương Biện]] (良弁, ''Rōben''), ban đầu thuộc [[Pháp tướng tông]] nhưng về sau đã sáng lập nên [[Hoa Nghiêm tông]], là một cố vấn thân cận của Thiên hoàng Thánh Vũ ẩn cư tại chùa Kim Chung.<ref name="Mason05.68">{{harvsp|Mason|Dinwiddie|2005|p=68-69}}.</ref> Ông đóng vai trò đáng chú ý trong việc vận động quyên góp giúp Thiên hoàng Thánh Vũ có thể hoàn thành bức tượng Phật Tỳ Lô Giá Na mà ông hằng mong ước.<ref name="Mino86.20" />
* [[Hạnh Cơ]] (行基, ''Gyōki''), người đã đóng vai trò quyết định trong cuộc vận động quyên góp tiền xây chùa ''(kanjin)''. Ông đã huy động dân chúng cả nước đóng góp về mặt kinh tế hoặc tình nguyện tham gia làm dân phu.<ref name="Mino86.22" />{{,}}<ref name="Coaldrake96.78">{{harvsp|Coaldrake|1996|p=78}}.</ref>
* [[Bồ Đề Tiên Na]] (菩提僊那, ''Bodhisena''), một thần tăng người Thiên Trúc và là bằng hữu của Lương Biện và Hạnh Cơ. Ông đã góp phần truyền bá [[Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm|Kinh Hoa Nghiêm]], giáo lý căn bản của Hoa Nghiêm tông, đến Nhật Bản. Ông cũng là người chủ trì lễ khai quang điểm nhãn tượng Đại Phật.<ref name="Mino86.22"/>
 
Tuy vậy, dự án Đông Đại tự khổng lồ này đã làm dấy lên sự chống đối từ những người thân cận bên thiên hoàng. Giới quý tộc chỉ trích mô hình tập quyền du nhập từ Trung Quốc mà Thánh Vũ đang cố gắng áp dụng lên triều đình Nhật Bản, trong khi các nhà sư bảo thủ lại lo ngại rằng bức tượng lớn như vậy sẽ che mờ đi sự giác ngộ bên trong.<ref name="Mino86.23">{{harvsp|Mino|Rosenfield|Coaldrake|Morse|1986|p=23}}.</ref> Tuy nhiên, hai sự kiện xảy ra trong thời gian này đã góp phần giúp Thiên hoàng Thánh Vũ có thể tiếp tục dự án: thứ nhất, một mỏ quặng văng đã được phát hiện ở Mutsu cho phép thu thập đủ quặng để giát vàng bức tượng; thứ hai, một lời sấm truyền từ đền Vũ Tá Bát Phiên cung (宇佐八幡宮, ''Usa Hachimangū'') nói rằng [[Hachiman|Bát Phiên Đại Bồ Tát]] (八幡大菩薩, ''Hachiman-dai Bosatsu''), một vị thần ''([[kami]])'' trong [[Thần đạo]], muốn bảo vệ pho tượng Đại Phật đang trong quá trình xây dựng này (một số sử liệu còn ghi lại rằng chính nhờ vào lời sấm này, người ta mới có thể phát hiện mỏ quặng vàng ở Mutsu kia).<ref name="Guth85.39">{{chú thích sách|last1=Guth|first1=Christine|title=Shinzō : Hachiman imagery and its development|date=1985|publisher=Council on East Asian Studies, Harvard University|isbn=9780674806504|pages=39-40|url=https://books.google.fr/books?id=xKuEXrKXdOgC|accessdate=2020-04-30}}</ref>
<ref name="Brown93.256" /> Bát Phiên Đại Bồ Tát trở thành một vị thần hộ pháp của ngôi chùa, và ông được đưa vào thờ phụng tại điện Bát Phiên trong quần thể Đông Đại tự.<ref name="Mason05.161">{{harvsp|Mason|Dinwiddie|2005|p=161}}.</ref>
 
Nghi lễ khai nhãn ''(kaigen)'' Đại Phật, một nghi lễ Phật giáo dùng bút mực vẽ thêm tròng đen vào cho mắt để linh hồn có thể nhập vào, đã được thực hiện ngay trong năm 752, trước khi pho tượng được hoàn thành do sức khỏe ngày một yếu đi của Thiên hoàng Thánh Vũ (hơn nữa, ông đã nhường ngôi cho [[Thiên hoàng Kōken|con gái]] vào năm 749 và xuất gia đi tu với vợ mình là [[Hoàng hậu Kōmyō|Quang Minh hoàng hậu]], để lại ngai vàng cho con gái mình).<ref name="Mino86.20"/> Hơn 1 vạn chúng tăng người Nhật Bản, Trung Quốc và Thiên Trúc cũng như nhiều đại thần đã tham gia nghi lễ kéo dài vài ngày này.<ref name="Mino86.24">{{harvsp|Mino|Rosenfield|Coaldrake|Morse|1986|p=24}}.</ref> Bồ Đề Tiên Na đích thân vẽ tròng mắt của Đức Phật, sử dụng bút lông được nối bằng dây với Thiên hoàng Thánh Vũ.<ref name="Mino86.24"/> Bức tượng cuối cùng đã được hoàn thành vào năm 757, sau khi đặt mạ vàng và điêu khắc những chi tiết xung quanh bệ tượng.<ref name="Morse96.113"/> Nhiều đồ trang trí hoặc đồ nghi lễ được sử dụng trong buổi lễ vẫn được bảo tồn tại Shōsō-in cho đến tận ngày nay, chẳng hạn như mặt nạ bằng gỗ ''gigaku'' thường được các vũ công đeo khi họ thực hiện những điệu nhảy nghi thức.<ref name="Murase96.51">{{harvsp|Murase|1996|p=51}}.</ref>
 
Công trình xây dựng khổng lồ đã đánh dấu triều đại của Thiên hoàng Thánh Vũ. Các chuyên gia ước tính, để có thể hoàn thành công trình này hơn 37 vạn thợ rèn và 50 vạn thợ mộc đã phải được huy động. Số lượng nhân công khổng lồ này đã khiến tài chính của chính quyền non trẻ này bị vắt kiệt.<ref name="Shimizu01.69"/><ref name="Stanley90.46">{{harvsp|Stanley-Baker|1990|p=46}}.</ref>
 
== Chú thích ==