Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Định Nam đao”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 15:
'''Định Nam đao''' ([[chữ Hán]]: 定南刀) là một thanh [[đao]] được cho là của vị vua sáng lập [[nhà Mạc]] là [[Mạc Đăng Dung]] (Mạc Thái Tổ), và hiện được lưu giữ trong Khu tưởng niệm Vương triều Mạc (trước là Từ đường họ Mạc) tại xã [[Ngũ Đoan]], huyện [[Kiến Thụy]], thành phố [[Hải Phòng]]. Đây là nơi vào [[Nhà Mạc|thời Mạc]] là trung tâm của [[Dương Kinh]], được nhiều nhà nghiên cứu lịch sử xem là kinh đô thứ hai của triều Mạc giai đoạn còn nắm quyền ở Thăng Long. Tên gọi "Định Nam đao" (đao Nam Định) là do con cháu họ Mạc đặt cho thanh đao này, xuất phát từ việc thanh đao này được phát hiện tại tỉnh [[Nam Định]].
 
ĐịnhCác Namthông đaotin đượcvề xemchiều dài, binhtrọng khílượng duyhiện nhấttại, trongtrọng lịchlượng sửước Việttính Namlúc thuộcban vềđầu… mộtcủa danhĐịnh tướngNam cũngđao nhưđược một vịtả vualần sángđầu lậpnăm triều[[1986]] đạibởi nhà cònnghiên đượccứu lưulịch giữsử đến ngàyXuân nayQuang.<ref>[http://kinhtedothi.vn/den-duong-kinh-nha-mac-ngam-thanh-long-dao-tren-500-tuoi-292282.html DoĐến Dương sựKinh khácNhà biệtMạc lớnngắm vềthanh thônglong tinđao trên tả500 chiềutuổi]</ref> dàiDựa trên trọngthông lượngtin thanh đaotả nàycủa giữa nhà nghiên cứu lịch sửông Lê Xuân Quang, rất nhómnhiều chuyênngười giađã củađưa [[Việnra Khảocác cổnhận họcđịnh Việtvề Nam]],thanh nênđao hiệnnày, trong nayđó có các quan điểm trái chiều về tính thực chiến của thanh đao này và thậm chí là về cả chủ sở hữu thực sự của nó.
 
Đến năm [[2019]], nhóm chuyên gia của Viện Khảo cổ học Việt Nam sau khi đo đạc lại thanh đao này để phục vụ việc lập hồ sơ công nhận bảo vật quốc gia cho thanh Định Nam đao đã công bố thông tin mô tả chi tiết có sự khác biệt lớn so với thông tin của ông Lê Xuân Quang. Đến năm [[2020]], thanh đao này đã được công nhận là một [[Bảo vật quốc gia (Việt Nam)#Đợt 8|bảo vật quốc gia]] của Việt Nam. Hồ sơ đề nghị công nhận bảo vật quốc gia cho thanh đao này ghi nhận thông tin về chiều dài và trọng lượng của thanh đao này như mô tả của Viện Khảo cổ học Việt Nam.<ref name="Bảo tàng LSQSVN">[http://btlsqsvn.org.vn/Relic/bai-viet/long-dao-o-khu-tuong-niem-vuong-trieu-mac-duoc-cong-nhan-bao-vat-quoc-gia-7222 Long đao ở Khu tưởng niệm Vương triều Mạc được công nhận Bảo vật quốc gia]</ref> Vì vậy, các thông tin mô tả của ông Lê Xuân Quang được xem là không chính xác, và theo đó các ý kiến đánh giá về tính thực chiến của thanh đao này dựa trên thông tin mô tả của ông Lê Xuân Quang cũng là không chính xác.
 
==Nguồn gốc==
Hàng 22 ⟶ 24:
Chỉ trong khoảng 20 năm, Mạc Đăng Dung từ một võ quan cấp thấp thời Lê Uy Mục, nhờ tài thao lược và mưu trí, đã vươn tới tột bậc quyền lực vào năm 1527 khi được thăng tới chức Thái sư tước An Hưng vương thời Lê Cung Hoàng. Cũng trong năm 1527, ông chính thức soán ngôi nhà Lê sơ để lập ra nhà Mạc. Tuy nhiên ông chỉ giữ ngôi vua có 3 năm, rồi theo kế sách thời Trần mà chủ động nhường ngôi cho con trưởng [[Mạc Đăng Doanh]] (Mạc Thái Tông), sau đó lui về Dương Kinh (Cổ Trai) quê nhà nhưng vẫn quán xuyến hầu hết những việc hệ trọng quốc gia cho tới tận khi mất với vai trò của một Thái thượng hoàng. Và có lẽ từ thời điểm này cho đến những năm cuối thế kỷ 16 khi nhà Mạc bị thất thủ (1592) thì thanh đao đã được cất giữ tại Dương Kinh (Cổ Trai). Sau khi Mạc Thái Tổ băng hà năm 1541 thì thanh đao này được thờ như vật thái bảo của họ Mạc tại lăng miếu Dương Kinh (Cổ Trai).
 
Đến năm 1592, khi nhà Mạc thất thủ ở [[Thăng Long]], cháu 4 đời của ôngMạc Đăng Dung là Mạc Đăng Thuận coi giữ lăng miếu, đã mang theo thanh đao này từ lăng miếu đến vùng Đồ Sơn, rồi sau đó xuống thuyền rời Đồ Sơn tiến về phía Nam, sau đó theo sông Hồng đến định cư ở vùng đất Kiên Lao (Nam Định) và đổi sang họ Phạm để tránh bị chúa Trịnh truy sát. Trải qua bốn đời ở vùng Kiên Lao, dòng họ Phạm gốc Mạc có sự phân chi, ông Phạm Công Úc được giao mang thanh đao này về định cư ở thôn Ngọc Tỉnh, thị trấn Xuân Trường, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định, và thờ ở từ đường chi họ Phạm gốc Mạc.
 
Năm 1821, [[Phan Bá Vành]] nổi dậy chống lại triều đình vua Minh Mạng, và muốn mượn thanh đao này làm linh khí trên chiến trường. Dòng họ Phạm gốc Mạc ở Ngọc Tỉnh đã chôn giấu thanh đao này để không bị mất.
Hàng 30 ⟶ 32:
 
==Mô tả==
 
Các thông tin về chiều dài, trọng lượng hiện tại, trọng lượng ước tính lúc ban đầu… của Định Nam đao được mô tả lần đầu bởi nhà nghiên cứu lịch sử Lê Xuân Quang khi thực hiện đo đạc năm [[1986]]. Hầu hết các phương tiện thông tin đại chúng và các ý kiến đánh giá về thanh đao này là dựa trên thông tin mô tả của ông Lê Xuân Quang. Đến năm [[2019]], nhóm chuyên gia của Viện Khảo cổ học Việt Nam thực hiện đo đạc lại thanh đao này để phục vụ việc lập hồ sơ công nhận di sản cấp quốc gia cho thanh Định Nam đao, và công bố thông tin mô tả chi tiết có sự khác biệt lớn so với thông tin của ông Lê Xuân Quang. Đến nay chưa có ai đưa ra lý giải về nguyên nhân của sự khác biệt này.
 
===Thông tin của nhà nghiên cứu lịch sử Lê Xuân Quang===
Dòng 37:
 
===Thông tin của Viện Khảo cổ học Việt Nam===
Năm 2019, đểĐể phục vụ làm hồ sơ công nhận di sảnbảo cấpvật quốc gia cho thanh Định Nam đao, một nhóm chuyên gia của Viện Khảo cổ học Việt Nam đã phối hợp với Ban quản lý di tích khu tưởng niệm các vua nhà Mạc tại Hải Phòng để tiến hành đo đạc lại các thông số của thanh Định Nam đao này, và công bố thông tin mô tả vào năm 2019 với số liệu khác với thông tin mô tả của nhà nghiên cứu lịch sử Lê Xuân Quang.<ref name="Viện Khảo cổ học">[http://blog.lamha.com.vn/tu-lieu-moi-ve-thanh-dinh-nam-dao-cua-vua-mac-dang-dung/ Tư liệu mới về thanh “Định Nam Đao” của Vua Mạc Đăng Dung]</ref>
 
Về trọng lượng, thanh đao nặng 12,8&nbsp;kg, ước tính trọng lượng khi mới sử dụng khoảng 15&nbsp;kg. Nếu quy đổi theo đơn vị [[cân]] truyền thống của Việt Nam (1 cân ta = 604,5 [[gam]]) thì lúc ban đầu thanh đao ước tính nặng khoảng 24,8 cân ta.
 
Về kích thước, tổng chiều dài của thanh đao là 239&nbsp;cm. Từ mũi đến hết khâu đao dài 92,5&nbsp;cm, trong đó khâu đao dài 16,5&nbsp;cm;. và phầnPhần cán đao dài 146,5&nbsp;cm, trong đó chuôi đao dài 12&nbsp;cm. Điểm thăng bằng trọng lượng của cả thanh đao nằm ở vị trí 107&nbsp;cm tính từ chuôi đao.
 
Bản lưỡi đao chỗ rộng nhất 11,5&nbsp;cm, sống lưỡi dày nhất 1,3&nbsp;cm, mỏng dần về đầu lưỡi. Khâu đao ôm chùm lưỡi đao và họng cán, trang trí đầu rồng, vân mây. Cán đao có [[tiết diện]] là [[hình bầu dục]], đường kính 4,5&nbsp;cm x 3,5&nbsp;cm. Cán đao rỗng ở phía gần khâu đao, và đặc ở phần chuôi đao. Dọc theo cán đao không có dấu vết gỉ theo dạng gò uốn cán, do đó cán đao được chế tạo bằng cách đúc chứ không phải gò uốn từ tấm kim loại.
 
Chất liệu chế tạo chủ yếu là sắt (bao gồm phần lưỡi đao và phần cán), riêng khâu đao làm bằng hợp kim đồng. Khi tiến hành phân tích thành phần hợp kim của khâu đồngđao bằng phương pháp khối phổ plasma cảm ứng (ICP-MS), tỷ lệ phần trăm thành phần hợp kim cơ bản tính cho những nguyên tố có hàm lượng từ 1% trở lên là:
 
{| class="wikitable"
Dòng 69:
Trả lời phỏng vấn của Báo điện tử [[Dân trí (báo)|Dân trí]] năm 2013, ông Nguyễn Bá Thanh Long, Phó Chủ tịch Hội cổ vật Hải Phòng, cho rằng trên các hiện vật cổ thường có các chất liệu, hoa văn, kiểu dáng và họa tiết đặc trưng, gọi là "minh văn"; dựa vào "minh văn" có thể xác định được triều đại của hiện vật đó. Tuy nhiên, thanh đao này không có minh văn và cũng không có dấu tích vật thể nào để khẳng định niên đại hay chủ sở hữu.<ref name="Báo Dân trí"/>
 
Theo nhận định của nhóm chuyên gia Viện Khảo cổ học Việt Nam năm 2019, phần đầu rồng trên khâu đồngđao không có mào, và cũng không có sừng. Trong khi đó, rồng có (mào là đặc trưng của [[Rồng Việt Nam#Rồng thời Lý (thế kỷ XI-XII)|rồng thời Lý]] và [[Rồng Việt Nam#Rồng thời Trần (thế kỷ XIII- XIV)|rồng thời Trần]]), còn cũng khôngrồngsừng (sừng dài là đặc trưng của [[Rồng Việt Nam#Rồng thời Lê trung hưng (thế kỷ XV-XVII)|rồng thời Lê Trung Hưng]] và [[Rồng Việt Nam#Rồng Nhà Tây Sơn và thời Nguyễn (thế kỷ XV - Đến nay)|rồng thời Nguyễn]]). Phần đầu rồng này gần giống với [[Rồng Việt Nam#Rồng thời Lê sơ (thế kỷ XIV)|rồng thời Lê sơ]] (với đặc trưng là không có mào, không có sừng, có mũi to như mũi sư tử), và nếu thêm sừng nhú thì sẽ giống với [[Rồng Việt Nam#Rồng thời Mạc (thế kỷ XV)|rồng thời Mạc]]. Vì vậy, nhóm chuyên gia này cho rằng đầu rồng này thuộc nửa đầu thế kỷ XVI. Mặt khác, hợp kim đồng chứa kẽm (Zn) ở Việt Nam thường gặp sớm nhất vào khoảng nửa đầu thế kỷ XVII, nên phần khâu đồng của thanh đao khó có thể do người thợ rèn Việt Nam làm ra vào thời đại Mạc Đăng Dung lên ngôi (năm 1527). Trong khi đó, từ năm 1503 người Trung Quốc dù chưa biết tách riêng nguyên tố kẽm ra thành một kim loại riêng biệt nhưng họ đã biết lấy quặng kẽm thêm vào hợp kim đồng nóng chảy. Từ đó, nhóm chuyên gia này đưa ra giả thuyết rằng có khả năng khâu đồng này được mua từ Trung Quốc hoặc được đúc từ phôi đồng của Trung Quốc, còn người thợ rèn Việt Nam chỉ đúc phần cán và rèn lưỡi.<ref name="Viện Khảo cổ học"/>
 
Căn cứ mô tả của Viện Khảo cổ Việt Nam, TS. Phạm Quốc Quân, nguyên Giám đốc Bảo tàng Lịch sử Quốc gia nhận định:
::''Trang trí ở khâu đao tỉ mỉ, tinh tế, chưa thấy xuất hiện trong các di tích và bảo tàng Việt Nam. Niên đại của hiện vật có thể đặt trong bối cảnh triều Lê Trung Hưng.''<ref name="Bảo tàng LSQSVN"/>
 
PGS. TS Đinh Khắc Thuận (Viện Hán Nôm) đánh giá:
::''Nghiên cứu trang trí trên khâu đao có thể xác định nghệ thuật trang trí mang phong cách Mạc.''<ref name="Bảo tàng LSQSVN"/>
 
===Về khả năng thực chiến===
Trả lời phỏng vấn của Báo điện tử Dân trí năm 2013, ông Đoàn Trường Sơn, Chủ tịch Hội khoa học lịch sử Hải Phòng, cho rằng một người Việt Nam ở thế kỷ XVI dù có lực lưỡng cỡ nào cũng không thể mang được một thanh đao nặng 30&nbsp;kg mà rong ruổi khắp sa trường. Vì vậy, thanh đao này mang ý nghĩa biểu tượng cho sức mạnh, cho vương quyền của một triều đại hơn là thanh đao chiến trận.<ref name="Báo Dân trí"/>
 
Theo nhận định của nhóm chuyên gia Viện Khảo cổ học Việt Nam năm 2019, thanh đao này dài hơn những thanh đao mà các võ sư hiện nay sử dụng để biểu diễn võ thuật đánh bộ (khoảng 170&nbsp;cm - 180&nbsp;cm), nên thanh đao này chỉ có thể dùng để đánh trên lưng ngựa. Khi giao chiến, tầm với của đao là khoảng 200&nbsp;cm và tối đa là khoảng 300&nbsp;cm khi nghiêng hoặc nhoài người. Chuôi đao được đúc đặc để cân bằng với phần lưỡi đao, nên người sử dụng có thể dùng chuôi đao để đánh tứ phía. Tiết diện cán hình bầu dục giúp việc cầm nắm đao vững chắc, và không bị lật xoay lưỡi đao nếu như cán tiết diện hình tròn. Với tổng trọng lượng ước tính 15&nbsp;kg và điểm cân bằng trọng lượng cách chuôi đao 107&nbsp;cm phù hợp với cách đánh đao trên ngựa. Trọng lượng trung bình chia đôi còn 7,5&nbsp;kg, đủ nặng để ra đòn chém bổ uy lực và thu đao đánh bằng cán.<ref name="Viện Khảo cổ học"/>
 
==Chú thích==