Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trần Quốc Lịch”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n dọn dẹp, replaced: VNCH → Việt Nam Cộng hòa (6)
Dòng 10:
|trưởng chức vụ= Cấp bậc
|trưởng viên chức= -Chuẩn tướng
|địa hạt= Quân khu IV
 
|chức vụ 2= [[Hình: ARVN 5th Division SSI.svg|22px]]<br>Tư lệnh Sư đoàn 5 Bộ binh
Dòng 67:
|nơi mất=
|phục vụ= [[Hình: Flag of South Vietnam.svg|22px]] [[Việt Nam Cộng hòa]]
|thuộc= [[Hình: Flag of the Army of the Republic of Vietnam.jpg|22px]] [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa|Quân lực VNCH]]
|năm phục vụ= [[1954]]-[[1974]]
|cấp bậc= [[Hình: US-O7 insignia.svg|16px]] [[Chuẩn tướng]]
|đơn vị= [[Hình: Vietnamese Airborne Division 's Insignia.svg|20px]] [[Binh chủng Nhảy dù Việt Nam Cộng hòa|Binh chủng Nhảy dù]]<br>[[Hình: ARVN 5th Division SSI.svg|20px]] [[Sư đoàn 5 Bộ binh Quân lực Việt Nam Cộng hòa|Sư đoàn 5 Bộ binh]]<br>[[Hình: QD IV VNCH.jpg|20px]] [[Quân đoàn IV (Việt Nam Cộng hòa)|Quân đoàn IV và QK 4]]
|chỉ huy= [[Hình: Flag of the Vietnamese National Army.svg|20px]] [[Quân đội Quốc gia Việt Nam|Quân đội Quốc gia]]<br>[[Hình: Flag of the Army of the Republic of Vietnam.jpg|20px]] [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa|Quân lực VNCH]]
|tham chiến= [[Chiến tranh Việt Nam]]
|khen thưởng= [[Hình: VPD National Order of Vietnam - Commander BAR.png|26px]] [[Bảo quốc Huân chương|B.quốc H.chương III]]<ref>Bảo quốc Huân chương đệ tam đẳng (ân thưởng).</ref>
Dòng 88:
Cuối năm 1956, sau gần một năm từ Quân đội Quốc gia chuyển sang phục vụ Quân đội Việt Nam Cộng hòa, ngày 1 tháng 10 ông được thăng cấp [[Trung úy]] giữ chức vụ Đại đội phó Đại đội 4 trong Tiểu đoàn 3 Nhảy Dù. Đến năm 1958, ông được cử theo học khóa tình báo tại trường Quân báo Cây Mai, mãn khóa trở về đơn vị làm sĩ quan An ninh tại Bộ chỉ huy Tiểu đoàn.
 
Ngày Quốc khánh Đệ nhất Cộng hòa 26 tháng 10 năm 1961, ông được thăng cấp [[Đại úy]], giữ chức Đại đội trưởng Đại đội 1 trong Tiểu đoàn 3 Nhảy dù. Đầu năm 1964, cùng đơn vị hành quân tại chiến trường Hồng Ngự khu vực Đồng Tháp Mười, ông bị thương phải chuyển về điều trị ở Tổng Y viện Cộng Hòa một thời gian ngắn. Đầu năm 1965, ông được chuyển sang làm Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 1 Nhảy dù.<ref>Thời điểm cuối năm 1965, Lữ đoàn Nhảy dù được tổ chức và trang bị hoàn chỉnh, ngày 1 tháng 12 được nâng lên cấp Sư đoàn Tổng trừ bị cho Bộ Tổng Tham mưu.</ref> Tháng 10 cùng năm, ông được cử theo học khóa Chỉ huy Tham mưu cao cấp ở trường Chỉ huy và Tham mưu tại Đà Lạt.
 
Đầu năm 1966, mãn khóa học trở về đơn vị ông được giữ chức vụ Trưởng phòng 2 tại Bộ Tư lệnh Sư đoàn Nhảy dù. Giữa năm, ông được thăng cấp [[Thiếu tá]] và được cử giữ chức vụ Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 3 Nhảy dù thay thế Thiếu tá [[Trương Kế Hưng (Trung tá, Quân lực VNCHViệt Nam Cộng hòa)|Trương Kế Hưng]]<ref>Thiếu tá Trương Kế Hưng về sau lên Trung tá.</ref>. Tháng Giêng năm 1967, ông được cử đi du học khóa Tình báo cao cấp tại trường Tình báo Thái Bình Dương Okinawa, Nhật Bản.
 
Tháng 4 năm 1968, sau chiến trận Mậu thân đợt 1 ông được thăng cấp [[Trung tá]] tại nhiệm. Sau đó, nhận lệnh bàn giao Tiểu đoàn 3 Nhảy Dù lại cho Thiếu tá [[Lê Văn Phát (Đại tá, Quân lực VNCHViệt Nam Cộng hòa)|Lê Văn Phát]]<ref>Thiếu tá Lê Văn Phát, sinh năm 1931. Sau cùng là Đại tá Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 3 Nhảy dù, đã chỉ huy đơn vị trấn giữ ở quận Khánh Dương (Khánh Hòa) trong những ngày cuối cùng của tháng 3 năm 1975</ref> để lên giữ chức Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 2 Nhảy Dù thay thế Trung tá [[Đào Văn Hùng (Trung tá, Quân lực VNCHViệt Nam Cộng hòa)|Đào Văn Hùng]].<ref>Trung tá Đào Văn Hùng, sinh năm 1923 tại Nam Định, tốt nghiệp trường Hạ sĩ quan Pháp. Sau cùng là Tham mưu phó tại Bộ Tư lệnh Sư đoàn Nhảy dù. Giải ngũ năm 1974</ref><ref>Vào thời điểm này chỉ huy Lữ đoàn 1 là Trung tá [[Lê Quang Lưỡng]], Lữ đoàn 3 là Đại tá [[Nguyễn Khoa Nam]].</ref>
 
Đầu năm 1970, ông được thăng cấp [[Đại tá]] tại nhiệm. Hạ tuần tháng 8 năm 1972, ông xin từ nhiệm vì bệnh cao huyết áp, bàn giao Lữ đoàn 2 lại cho Trung tá [[Nguyễn Thu Lương (Đại tá, Quân lực VNCHViệt Nam Cộng hòa)|Nguyễn Thu Lương]].<ref>Trung tá Nguyễn Thu Lương sinh năm 1934 tại Hà Đông, tốt nghiệp khóa 4 Sĩ quan Thủ Đức. Sau cùng là Đại tá Chỉ huy trưởng Lữ đoàn 2 Nhảy dù.</ref> Sau đó, ông được cử giữ chức vụ Tham mưu trưởng kiêm Trưởng phòng 3 Hành quân của Sư đoàn. Đầu tháng 9 cùng năm, ông được bổ nhiệm làm Tư lệnh Sư đoàn 5 Bộ binh thay thế Chuẩn tướng [[Lê Văn Hưng (tướng Việt Nam Cộng hòa)|Lê Văn Hưng]].
 
Ngày lễ Quốc khánh Đệ nhị Cộng hòa 1 tháng 11 năm 1972 ông được thăng cấp [[Chuẩn tướng]] tại nhiệm. Thượng tuần tháng 7 năm 1973, ông được lệnh bàn giao Sư đoàn 5 lại cho Đại tá [[Lê Nguyên Vỹ]] (nguyên Tư lệnh phó Sư đoàn 21 Bộ binh). Cùng ngày, ông được bổ nhiệm giữ chức vụ Chánh thanh tra Quân đoàn IV và Quân khu 4.