Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Phật Câu-lưu-tôn”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
→‎Cuộc đời: Sửa lỗi chính tả, bổ sung
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Sửa một số lỗi chính tả, lỗi câu.
Dòng 23:
{{buddhism}}
Trong tín ngưỡng [[Phật giáo]], '''Câu Lưu Tôn''' hay '''Câu Lâu Tôn''' ([[tiếng Pali]]: '''Kakusandha''', [[tiếng Phạn]]: '''Krakucchanda''', [[tiếng Tạng chuẩn|tiếng Tạng]]: '''Khorvadjig''') là tên gọi của vị [[Phật]] thứ 25, cũng là vị Phật đầu tiên của [[Kiếp (Phật giáo)|hiền kiếp]] (kiếp hiện tại), và là vị Phật thứ 4 trong số [[Bảy vị Phật quá khứ]]. Tiểu sử của vị Phật này được ghi chép trong ''[[Phật sử]]'' (Buddhavamsa) của [[Tiểu bộ kinh]] (Khuddaka Nikaya), một phần của [[Kinh (Phật giáo)|Kinh Tạng]] (Sutta Piṭaka), một trong ba bộ kinh sách của [[Tam tạng|Kinh Tạng Pāli]] (Tripitaka).
 
Trong Phong thần diễn nghĩa của tác giả Hứa Trọng Lâm:
 
Thời phong thần,là một trong thập nhị đại tiên Xiển giáo, ở động Phi Long, núi Hiệp Long.Học trò Đức Nguyên Thỉ( Nguyên Thuỷ Thiên Tôn), phá trận Địa Liệt, theo Tiếp Dẫn (tiền kiếp của Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật) sang Tây phương tu luyện. Đệ tử: Thổ Hành Tôn. Bửu bối: Khổn Tiên thằng.
 
==Cuộc đời==
Phật Câu Lưu Tôn là người họ Kassapa (Ca Diếp (Kassapa) <ref name=KDBViet /><ref name=KDBPali /><ref name=KDBTrung />, sinh ra tại Khemavati (hiện nay là [[Gotihawa]]), thuộc [[Kapilavastu|quận Kapilavastu]], trong [[vùng Lumbini]] thuộc miền nam [[Nepal]]<ref>Chan Khoon San, [http://www.buddhanet.net/pdf_file/buddhistpilgrimage.pdf Buddhist Pilgrimage], Subang Jaya Buddhist Association, Subang Jaya, Malaysia, 2001, trang 51.</ref>. Phụ thân ông là Aggidatta (Tự Đắc, 祀得), một giáo sĩ [[Bà-la-môn]] của vua Khemankara (An Hòa) xứ Khemavati (An Hòa). Mẫu thân ông là Visakha (Thiện Chi, 善枝). Vợ ông là Virochamana (còn biết đến như là Rocani); ông có một con trai là Uttara (Thượng Thắng, 上勝, con trai của Kakusandha)<ref name=KDBViet>[http://www.quangduc.com/kinhdien/Truongbo/truongbo14.html Kinh Trường bộ - Kinh Đại bổn]</ref><ref name=KDBPali>[http://www.metta.lk/tipitaka/2Sutta-Pitaka/1Digha-Nikaya/Digha2/14-mahapadana-p.html Suttantapiñake - Mahàpadànasuttaü] (tiếng Pali)</ref><ref name=KDBTrung>[http://zh.wikisource.org/wiki/%E9%95%B7%E9%98%BF%E5%90%AB%E7%B6%93/%E5%8D%B7%E4%B8%80 Trường A hàm kinh - Kinh Đại Bổn (tiếng Trung)]</ref>.
 
[[A-dục vương|Asoka]] (vua A Dục) từng thăm viếng Gotihawa, [[Nepal]] khi ông tới thăm [[Lâm-Tỳ-Ni|Lumbini]], [[Nepal]] và cho dựng một cột đá, trên đó có khắc câu chuyện về cuộc viếng thăm của ông lên cột đá này. Cũng có một tháp Phật (stupa) tại Gothihawa. Vì thế, nói chung người ta chấp nhận (vì cột đá này) rằng nơi sinh của Kakusandha là tại Gothihawa, [[Nepal]] gần [[Kapilvastu]], [[Lâm-Tỳ-Ni|Lumbini]] (Lâm Tì Ni), [[Devadaha]] và [[Ramagrama]] của [[Nepal]].
Hàng 35 ⟶ 31:
Phật Câu Lưu Tôn sống 4.000 năm trong gia đình tại ba nơi: Ruci, Suruci và Vaddhana (hay Rativaddhana). Năm 4.000 tuổi, ông từ bỏ cuộc sống trần tục trong khi đang đi trên một cỗ xe ngựa kéo. Ông tu tập khổ hạnh trong 8 tháng<ref name= Kakusandha>Vipassana.info, [http://www.vipassana.info/ka/kakusandha.htm Pali Proper Names Dictionary: Kakusandha]</ref>. Trước lúc đạt tới giác ngộ, ông đã ăn một chút cơm nấu bằng nước cốt dừa do con gái của vị Bà-la-môn Vajirindha tại làng Suchirindha cúng dường, cũng như cỏ để làm chỗ ngồi từ yavapalaka Subhadda. Ông giác ngộ dưới gốc cây [[bồ kết tây|sirisa]] (Thi lợi sa, Bồ kết tây hay Lim xanh, ''Albizia lebbeck''), sau đó thuyết pháp lần đầu cho một tăng hội gồm 40.000 Tỳ kheo<ref name=KDBViet /><ref name=KDBPali /><ref name=KDBTrung /> trong một công viên gần [[Makila]].
 
Phật Câu Lưu Tôn đã thực hiện một phép màu kép dưới cây [[sala]] (''Shorea robusta''), tại cổng Kannakujja. Trong số những chúng sinh được ông giáo hóa có một [[dạ-xoa|dạ xoa]] (yaksha) hung dữ tên là Naradeva. Câu Lưu Tôn duy trì lễ Phát Lồ sám hối (''uposatha'') mỗi năm.
 
Hai đệ tử hàng đầu của ông là Vidhura (Tỳ-lâu, 毗樓) và Sanjiva (Tát-ni, 薩尼), còn trong số các Tỳ kheo ni là Sama và Champa. Vị chấp sự đệ tử (thị giả tỳ kheo) là Buddhija (Thiện Giác, 善覺) <ref name=KDBViet /><ref name=KDBPali /><ref name=KDBTrung />. Acchuta và Samana, Nanda và Sunanda là các nam / nữ thí chủ chính của ông. Acchuta đã cho xây dựng một tu viện cho Phật Câu Lưu Tôn tại cùng một nơi mà sau này được [[Cấp Cô Độc|Anathapindika]] mua để lập Jetavana Arama (tu viện rừng cây Jeta) dành cho [[Tất-đạt-đa Cồ-đàm|Phật Thích Ca Mâu Ni]].
Hàng 41 ⟶ 37:
Theo [[Tương Ưng Bộ kinh]] (Samyutta Nikaya) (ii.194), đỉnh Vepulla ở [[Rajgir]] khi đó gọi là Pachinvamsa; và những người dân trong khu vực đó là Tivara.
 
Phật Câu Lưu Tôn cao 40 cubit (20–21 m), nhập ông mấtdiệt độ tuổi 40.000 năm ởtại Khemavati. Một tháp Phật (thūpa) từng được dựng trên các thánh tích của ông, với độ cao khoảng 5&nbsp;km<ref name="Kakusandha"/>.
 
Vị [[Bồ Tát]] mà sau này trở thành Thái tử [[Tất-đạt-đa Cồ-đàm]] (Siddhartha Gautama) thì trong thời Phật Câu Lưu Tôn chính là vua Khema. Câu Lưu Tôn cũng là vị Phật đã tiên đoán rằng vua Khema, người đã dâng cho ông đồ [[bố thí]] cùng Y và thuốc men, sẽ trở thành Phật Thích Ca trong tương lai<ref>[http://www.jatakaonline.com/jataka-tales/00110-prophecies-of-kakusandha-buddha-konagamana-buddha-and-kassapa-buddha Prophecies of Kakusandha Buddha, Konagamana Buddha and Kassapa Buddha]</ref>.
 
==Xem thêm==
Hàng 53 ⟶ 49:
*[[Danh sách hai mươi tám vị Phật]]
 
====Ghi chú====
{{Tham khảo}}
{{s-start}}