Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Vô Trước”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 5:
 
Những nhà Phật học ngày nay đều nhất trí rằng, Đại thừa Phật pháp là sự phát triển của các giáo lí mà [[Phật Thích-ca]] lịch sử từng tuyên thuyết nhưng không hẳn là chính lời của vị này. Trong thời của Vô Trước, giáo lí Đại thừa này bị nhiều trường phái Tiểu thừa chỉ trích, cho là Dị giáo (sa. ''tīrthikā'', pi. ''titthiyā''), là giáo lí của tà ma, ngoại đạo. Sư cũng đứng trước vấn đề này và đã tìm cách chứng minh tính chất phù hợp, tiếp nối, phát triển của giáo lí mới, nêu ý kiến của mình trong ''Nhiếp đại thừa luận'':
:“Nếu Đại thừa là giáo lí sau này của một người nào đó thì Phật đã bảo rằng, đây là một mối nguy hại cho tương lai. Nhưng Ngài đã không nói. [[Đại thừa]] xuất phát cùng thời với Thanh văn thừa (sa. ''śrāvakayāna''), không phải thời sau. Nếu như thế thì sao người ta không thể xem nó chính là lời Phật (sa. ''buddhavacana'') thuyết? Giáo lí thâm sâu này không thể hội được qua biện luận nghi ngờ; những giáo lí này không thể nào tìm thấy được trong các Dị giáo luận (sa. ''tīrthikāśāstra'') và nếu nó được thuyết giảng, ngoại đạo cũng không thể hiểu nổi…” Sư nhấn mạnh rằng, ý nghĩa (sa. ''artha'') được trình bày trong Đại thừa không nhất thiết theo ngôn ngữ trình bày trên giấy mực; nó chính là cái cốt tuỷ nằm sau những lời văn này. Người ta không thể thâm nhập huyền nghĩa nếu chỉ chú tâm, bám chặt vào văn tự.
 
Theo thuyết của Cao tăng Tây Tạng Đa-la-na-tha (zh. 多羅那他, bo. kun-dgaḥ''tāranātha'' sñyin-poཏཱ་ར་ནཱ་ཐ་), Sư đến nhiều vùng tại Ấn Độ và xiển dương giáo lí Đại thừa Duy thức, thành lập khoảng 25 tu viện. Thời gian hoằng hoá của Sư được xem là nằm trong thế kỉ thứ tư, đặc biệt là trong những vùng Tây Bắc Ấn Độ, bây giờ thuộc về Pakistan.
 
==Tác phẩm==