Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hiếu Triết Nghị Hoàng hậu”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 25:
'''Hiếu Triết Nghị Hoàng hậu''' ([[chữ Hán]]: 孝哲毅皇后; {{lang-mnc|ᡥᡳᠶᠣᠣᡧᡠᠩᡤᠠ<br> ᠰᡠᠯᡨᡠᠩᡤᠠ<br> ᡶᡳᠯᡳᠩᡤᠠ<br> ᡥᡡᠸᠠᠩᡥᡝᠣ|v=hiyoošungga sultungga filingga hūwangheo|a=hiyouxungga sultungga filingga hvwangheu}}; [[25 tháng 7]], năm [[1854]] - [[27 tháng 3]], năm [[1875]]), là vị [[Hoàng hậu]] duy nhất của [[Thanh Mục Tông]] Đồng Trị Hoàng đế.
 
Bà là một trong 4 vị Hoàng hậu Đại Thanh duy nhất được sách lập xuất thân từ [[Mông Cổ]] bênh cạnh [[Hiếu Đoan Văn Hoàng hậu]], [[Phế hậu Tĩnh phi|Bát Nhĩ Tề Cát Đặc Phế hậu]] và [[Hiếu Huệ Chương Hoàng hậu|Hiếu Huệ Chương Hoàng hậu]], không xét các trường hợp truy phong như [[Hiếu Trang Văn Hoàng hậu|Hiếu Trang Văn Hoàng hậu]] và [[Khang Từ Hoàng thái hậu|Hiếu Tĩnh Thành Hoàng hậu]]kỳ. Ngoài ra, bà cũng là một trong 4 vị Hoàng hậu duy nhất của nhà Thanh được hưởng quy chế lễ đại hôn khi thành thân với Hoàng đế, bên cạnh [[Phế hậu Tĩnh phi]], [[Hiếu Thành Nhân Hoàng hậu]] và [[Long Dụ Hoàng thái hậu|Hiếu Định Cảnh Hoàng hậu]].
 
== Gia thế ==
Dòng 32:
Hiếu Triết Hoàng hậu sinh ngày [[1 tháng 7]] (âm lịch) năm Hàm Phong thứ 4, xuất thân từ gia tộc [[A Lỗ Đặc thị]] (阿魯特氏), thuộc [[Mãn Châu]] [[Bát kỳ|Tương Hoàng kỳ]], nhưng vốn là [[Mông Cổ]] Chính Lam kỳ<ref>《清实录同治朝实录》: 癸未。谕内阁、正蓝旗蒙古都统灵桂等奏、皇后母家抬旗。请旨办理一摺。著将妥散秩大臣三等承恩公崇绮本身一支。抬入镶黄旗满洲。</ref>, địa vị xã hội trong Đại Thanh tương đối không cao lắm.
 
Thủy tổ tên [[Bá Nhĩ Đặc Y]] (伯尔特依), từ đó xuống 5 đời đều là bạch thân, tức là thường dân học vụ không có quan chức gì cả. Đến đời thứ 7, có vị tên [[Cảnh Huy]] (景辉) ở năm Gia Khánh thứ 7 khảo ''Phiên dịch [[Cử nhân]]'', làm quan đến Tứ phẩm, từ đó đem gia tộc liệt vào hàng quan hoạnlại nhân gia. Cảnh Huy có hai con trai, đều thi đậu Phiên dịch Cử nhân, cụ thể là hai đợt Phiên dịch giải nguyên Gia Khánh năm thứ 21 và Đạo Quang năm thứ 5, vì thế đem gia tộc vào hạng Khoa cử thế gia. Đặc biệt là người anh [[Tái Thượng A]] (赛尚阿). Tái Thượng A vào năm Gia Khánh năm thứ 21 thi đậu, chọn ''Bút thiếp chứcthức nhập sĩ'', vào thời Đạo Quang thăng làm [[Thị lang]], [[Thượng thư]], nhập [[Quân cơ xứ]].
 
Tái Thượng A ở [[chiến tranh nha phiến]] lần thứ nhất, được coi trọng, trao cho chức ''Hiệp Bạn Đại học sĩ'' (协办大学士), thuộc hàng trọng yếu đại thần khi đấy. Năm đầu Hàm Phong, thăng ''Văn Hoa điện Đại học sĩ'' (文华殿大学士), [[Quân cơ đại thần]], vânvâng mệnh trấn áp quân [[Thái Bình Thiên Quốc]]. Tuy nhiên, ông binh bại trở về, Hoàng đế giận dữ cách chức. Năm Hàm Phong thứ 10, lại đem Tái Thượng A gọi lại vào triều, phong làm [[Phó Đô thống]], tuy nhiên nhậm chức không lâu thì ông phải về dưỡng bệnh, năm đầu Quang Tự thì qua đời. Ông có nhiều con, con trưởng là [[Sùng Tự]] (崇绪) nhậm ''Vân Huy sứ'', con trai thứ [[Sùng Hi]] (崇熙) sau chết ở quốc nạn. Cha của Hoàng hậu là [[Sùng Khởi]] (崇绮), con thứ ba của Tái Thượng A, vốn khảo Cử nhân nhậnnhậm Lục phẩm Chủ sự, sau vì vụ của Tái Thượng A mà bị miễn quan. Ông đóng cửa đọc sách, sau khảo thi [[Trạng nguyên]], trở thành Trạng nguyên duy nhất thuộc Bát kỳ trúng tuyển, nhậm ''Hàn lâm viện Thị giảng'', nhà ở gần [[An Định môn]].
 
Sùng Khởi có 3 vợ, chính thất là mẹ đẻ của Hoàng hậu, Ái Tân Giác La thị, vốn là con gái Trịnh Thân vương [[Đoan Hoa]] và Nữu Hỗ Lộc thị, cô mẫu của [[Từ An Thái hậu]]. Theo vai vế gia tộc, Hoàng hậu là cháu gọi Từ An Thái hậu bằng dì, do mẹ bà là biểu tỷ của Thái hậu. Kế thê của Sùng Khởi là con gái của Lý vương phủ Thành Thủ úy [[Tái Diệu]] (载耀), và Qua Nhĩ Giai thị, đường tỷ của [[Vinh Lộc]]. Gia đình Hoàng hậu tổng cộng năm con gái và một con trai, con trai duy nhất tên [[Bảo Sơ]] (葆初), Hoàng hậu là con gái thứ 3 trong nhà. Em gái út của bà về sau tham gia Bát Kỳ tuyển tú, được chỉ hôn cho Huệ Kính Quận vương [[Dịch Tường]] (奕详), con trai thứ 5 của Huệ Đoan Thân vương [[Miên Du]], làm Kế Phúc tấn. Ngoài ra, bà còn có đường muội được chỉ hôn cho Đôn Thân vương phủ Bối lặc [[Tái Liêm]] (载濂), tổ phụ của [[Dục Nham]] (毓嵒). Có thể thấy, gia đình bà tuy gốc gác không cao nhưng có liên hôn với Hoàng thất. Bên cạnh đó gia tộc này lại có truyền thống thi cử, khuôn phép nặng nề, nên có thể hình dung A Lỗ Đặc thị lớn lên ở môi trường học vấn cao độ.
Dòng 117:
Năm Quang Tự thứ 2 ([[1876]]), [[tháng 5]], Ngự sử [[Phạm Đôn Nghiễm]] (潘敦俨) thượng tấu, trong đó nói đến hiện tại quốc nội khí hậu khô hạn, là bởi vì thụy hiệu của Hiếu Triết Nghị Hoàng hậu có vấn đề, thỉnh cầu sửa đổi thụy hiệu, lại có đoạn nói ''"Sau khi Mục Tông băng 100 ngày, đường phố đồn đãi (Hoàng hậu) nào là bi thương thành bệnh, nào là tuyệt thực vẫn sinh. Sự tình không minh bạch, dùng cái gì an ủi vong linh ở trên trời? Làm sao để khiến dân chúng không còn hoang mang?"''. Theo ý của Phạm Đôn Nghiễm, Hiếu Triết Nghị Hoàng hậu là tự sát vì tiết nghĩa, nên theo dân gian treo một biển khen thưởng, như thế mới có ''"mưa thuận gió hòa"''. Lưỡng cung Thái hậu nghe thế cả kinh, bèn phê duyệt đại khái nói:''"Lịch triều ban thụy hiệu, đều theo quy tắc có từ trước. Kính cẩn cử hành. Hiếu Triết Nghị Hoàng hậu đã có thụy hiệu, há chỉ nghe lời không đâu mà sửa đổi? Ngự sử nhận xét chủ quan, nghe theo lời trên phố phường mà thượng tấu, thật sự hồ đồ. Phan Đôn Nghiễm giao bộ nghiêm gia nghị sử"''. Cuối cùng ông ta bị cách chức.
 
Khi Hiếu Triết Nghị Hoàng hậu qua đời, triều đình vừa chọn xong ngày lành tháng tốt dựng lăng cho Đồng Trị Đế, vì vậy bà cùng Đồng Trị Đế đều tạm quàngquàn ở [[Long Phúc tự]] thuộc [[Thanh Đông lăng]]. Quang Tự nguyên niên ([[1875]]), ngày [[18 tháng 9]], Quang Tự Đế hộ tống Từ Hi Thái hậu đích thân đưa tử cung của Đế - Hậu đến Long Phúc tự.
 
Năm Quang Tự thứ 5 ([[1879]]), ngày [[2 tháng 3]] (âm lịch), đưa thần chủ của Hiếu Triết Nghị Hoàng hậu và Mục Tông thăng phụ [[Thái Miếu]]<ref>[https://ctext.org/wiki.pl?if=gb&chapter=114606&remap 《清實錄光緒朝實錄》]: ○以穆宗毅皇帝孝哲毅皇后升祔太廟禮成。頒詔天下。詔曰。朕惟丕基寅紹。嗣服即所以承先。明德惟馨。肇祀莫虔於崇祔。溯寢成之茂矩。功報中興。緬閟侐之宏規。義詳配食。爰稽殷禮。覃舉洪儀。欽惟穆宗毅皇帝體協乾剛。猷宣鼎命。孝思純篤。敦天敘於寢門。聖學緝熙。懋日新於經幄。隆保傅公孤之選。置輔則其慎其難。𥳑方岳牧伯之良。任人則勿疑勿貳。奮威棱於初政。朝序澄清。敷智勇為武功。中原砥定。詔裁浮賦。惠南邦而曠典蠲除。策裕邊防。綏西極而大勛創始。飭官方以俾乂。黜陟維嚴。增貢額以求賢。登崇益廣。考言詢事。彤廷廑察邇之勞。慎獄明刑。丹扆建協中之治。神謨廣運。庶績咸熙。惟道積於厥躬。乃化光於天下。十三載宵衣旰食。精勤無閒於皇衷。億兆人樂事勸功。教養胥資乎帝力。矢蠲吉以昭崇報。成憲孔彰。肅烝嘗以永輝光。蕃厘丕迓。孝哲毅皇后伣天正位。應地含章。蘭殿承歡。婉順克勷夫至養。椒塗贊化。柔雍早樹厥徽音。端內治於六宮。言容有度。播壼儀於九域。感愴同深。允宜陳圭瓚以鳴虔。潔幾筵而祗薦。謹率諸王貝勒文武諸臣、於光緒五年閏三月初二日、恭奉穆宗繼天開運受中居正保大定功聖智孝信敏恭寬毅皇帝神位、孝哲嘉順淑慎賢明憲天彰聖毅皇后神位、合祔於太廟。兩儀撰合。宜並奉以明禋。九室禮成。咸恪承乎大糦。爰本餕餘以施惠。特頒渙號而推恩。所有事宜。開列於後。一、內外大小官員。於從前恩詔後升職加銜補官者。悉照現在職銜、給與封典。一、試職各員俱准實授。一、貢監生仍派大臣官員考定職銜。照舊例送吏部注冊。一、各省儒學。以正貢作恩貢。次貢作□山戊不□貢。一、貢生監生在監肄業者。免坐監一月。一、軍民七十以上者。許一丁侍養。免其雜派差使。一、窮民無力營葬、並無親族收瘞者。該地方官擇隙地多設義塚。隨時掩埋。毋使暴露。於戲、松梴丕煥。在庭之陟降匪遙。黍稷升香。備物之精誠曷罄。合臣工以獻享。共效尊崇。慰朝野之謳思。覃敷闓澤。布告天下。咸使聞知。禮部檔</ref>. Ngày [[21 tháng 3]] cùng năm, Quang Tự Đế đích thân hộ tống Lưỡng cung Thái hậu từ kinh sư khải loan, tham gia Phụng an đại điển, đưa Đế - Hậu nhập táng. Ngày [[26 tháng 3]], Gia Thuận Hoàng hậu hợp táng cùng Đồng Trị Đế vào [[Huệ lăng]] (惠陵), quách của bà ở phía bên trái (hướng Đông) của Đồng Trị Đế. Ngày hôm đó, có [[Thục Thận Hoàng quý phi|Đôn Nghi Hoàng quý phi Phú Sát thị]], [[Kính Ý Hoàng quý phi|Du phi Hách Xá Lý thị]], [[Trang Hòa Hoàng quý phi|Tuần phi A Lỗ Đặc thị]] và [[Đôn Huệ Hoàng quý phi|Tấn tần Tây Lâm Giác La thị]] là những người cuối cùng vào quyết biệt Đế - Hậu trong địa cung. Năm thứ 26 ([[1900]]), khi liên quân 8 nước tấn công Bắc Kinh buộc Hoàng tộc phải bỏ trốn, Từ Hi Thái hậu ra lệnh cho phụ thân của Hiếu Triết Nghị Hoàng hậu là Sùng Khởi ở lại trấn giữ kinh thành. Cả nhà Sùng Khởi đã tự sát sau khi Bắc Kinh thất thủ<ref>Thán sử cảo, chương 255</ref>.
Dòng 138:
|style="text-align:center;"|2006||style="text-align:center;"|《[[Nhất sinh vi nô]]》<br>(一生为奴)||style="text-align:center;"|[[Mễ Dương]]<br>米扬
|-
|style="text-align:center;"|2012|| style="text-align:center;"|《[[Đại thái giám]]》<br>(大太監)||style="text-align:center;"|A Lỗ Đặc•BảoĐặc • Bảo Âm<br>(阿魯特•寶音)|| style="text-align:center;" |[[Đường Thi Vịnh]]<br>唐詩詠
|}