Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chiến tranh Xô–Đức”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Rescuing 1 sources and tagging 0 as dead.) #IABot (v2.0.7 |
Không có tóm lược sửa đổi Thẻ: Lùi sửa |
||
Dòng 1:
{{Thông tin chiến tranh
| rộng
| tên = Chiến tranh Xô–Đức
| một phần của = [[Chiến trường châu Âu (Thế chiến thứ hai)|Chiến trường châu Âu]] trong [[Chiến tranh thế giới thứ hai]]
| image = [[Tập tin:EasternFrontWWIIcolage.png|300px]]
| caption = ''Theo chiều kim đồng hồ từ trái sang:'' 1. Máy bay [[Ilyushin Il-2|Il-2]] của Liên Xô
| địa điểm = [[Đông Âu|Đông]] và [[Bắc Âu]]; sau đó lan rộng ra [[Nam Âu]] ([[Balkan]]) và [[Tây Âu]] (Đức và Áo)
|nguyên nhân=[[Kế hoạch Barbarossa]]
Dòng 13:
* Phong trào Cộng sản nắm quyền ở [[Đông Âu|Đông]] và một phần của [[Bắc Âu|Bắc]] và [[Nam Âu|Nam]] [[châu Âu]]
|thay đổi lãnh thổ=
* Thành lập [[Tây Đức|Cộng hoà Liên bang Đức]] (Tây Đức) và [[Cộng hòa Dân chủ Đức|Cộng hoà Dân chủ Đức]] (Đông Đức) dựa trên cơ sở nước Đức cũ
* Tây Ukraina, Tây Belarus, [[Kaliningrad|Konigsberg]] (đổi tên thành Kaliningrad) và Karelia thuộc về Liên Xô.
* Một phần lãnh thổ của Đế chế Đức sáp nhập vào Ba Lan.
| bên 1 ='''[[Phe Trục|Trục]]'''<br /> '''{{flagcountry|Nazi Germany}}'''<ref name=Axis-help>Toàn bộ các đồng minh của Đức cung cấp một số lượng đáng kể quân đội và vật chất cho mặt trận. Cũng có nhiều đơn vị nước ngoài được Đức tuyển dụng, đáng chú ý nhất là [[Sư đoành Xanh|Sư đoàn Xanh Tây Ban Nha]].</ref><br />{{flagcountry|Vương quốc România}} (đến 1944)<br />{{flagicon|Finland}} [[Lịch sử quân sự Phần Lan trong Chiến tranh thế giới thứ hai|Phần Lan]] (đến 1944)<br />{{flagicon|Ý|old}} [[Phát xít Ý]] (đến 1943)<br />{{flagcountry|Vương quốc Hungary|1940}}<br />{{flagcountry|Nhà nước Độc lập Croatia|1941}}<ref>Beevor, ''Stalingrad''. Penguin 2001 ISBN 0-14-100131-3 p183</ref><br />{{flagicon|Slovakia|1938}} [[Cộng hòa Slovak (1939–1945)|Slovakia]]<br />{{flagcountry|Vương quốc Bulgaria}} (đến 1944)
Dòng 31:
{{Các mặt trận trong Chiến tranh thế giới thứ hai}}
{{Mặt trận phía Đông (Thế chiến II)}}
'''Chiến tranh Xô–Đức 1941–1945''' là cuộc chiến giữa [[Liên Xô]] và [[Đức Quốc xã]] trong [[Chiến tranh thế giới thứ hai]], trải dài khắp
* {{de icon}} [http://www.balsi.de/Weltkrieg/Verlauf/Russland/Russland-Startseite.htm Der Rußlandfeldzug]
* {{de icon}} [http://www.torweihe.de/ 2. Weltkrieg]</ref> vì thực chất đây là giai đoạn quan trọng nhất của cuộc chiến ở mặt trận phía đông [[châu Âu]] trong [[Chiến tranh thế giới thứ hai]].
Dòng 37:
Tuy có tên là '''Chiến tranh Xô–Đức''' nhưng thực ra Đức không tấn công Liên Xô một mình mà còn có sự giúp sức của 8 nước đồng minh [[phe Trục]] ở [[châu Âu]] là [[Vương quốc Romania|Romania]], [[Vương quốc Hungary (1920-1946)|Hungary]], [[Bulgaria]], [[Phát xít Ý]], [[Slovakia]], [[Nhà nước Độc lập Croatia|Croatia]], [[Phần Lan]], [[Vichy Pháp]]. Về phía [[Liên Xô]], trên đà chiến thắng kể từ năm 1943, họ đã cho thành lập quân đội các nước [[Ba Lan]], [[Tiệp Khắc]] bên phía mình để chiến đấu trên lãnh thổ các quốc gia này và làm nòng cốt xây dựng quân đội các quốc gia này sau chiến thắng. Vào cuối năm 1944 và đầu năm 1945, khi quân đội Xô Viết tiến vào Romania, Hungary, các nước này đã quay sang chống lại Đức Quốc xã và gia nhập [[Khối Đồng Minh thời Chiến tranh thế giới thứ hai|Liên minh chống Phát xít]]. Cuộc chiến tranh tiếp diễn giữa Liên Xô và Phần Lan có thể coi là sườn phía bắc của mặt trận này. Ngoài ra, các hoạt động phối hợp của Đức-Phần Lan qua biên giới phía bắc Phần Lan-Liên Xô và tại khu vực [[Murmansk (tỉnh)|Murmansk]] cũng được coi là một phần của Chiến tranh Xô-Đức.
Mặt trận này
Hai cường quốc tham chiến chủ yếu là phát xít Đức và Liên Xô. Mặc dù không tham chiến tại đây, nhưng Vương quốc Anh và Hoa Kỳ đã viện trợ về tài chính và vật chất hỗ trợ cho Liên Xô trong các giai đoạn sau của cuộc chiến (khoảng 4% lượng vũ khí mà Liên Xô sử dụng là do Mỹ - Anh viện trợ). Trong khi đó, phía Đức Quốc xã thì nhận được sự hỗ trợ từ 9 nước đồng minh (phát xít [[Ý]], [[Romania]], [[Bulgaria]], [[Hungary]], [[Phần Lan]], [[Slovakia]], [[Croatia]], [[Vichy Pháp]] và [[Tây Ban Nha]]), 9 nước này đã cung cấp cho Đức khoảng 20% quân số, 1/3 số lao động và hơn một nửa lượng tài nguyên, vật liệu
== Tư tưởng ==
Dòng 76:
Năm 1938, trước nguy cơ [[Chiến tranh thế giới thứ hai]] nổ ra, Liên Xô đã đề nghị lập liên minh [[chống phát xít]] với Anh-Pháp và sẵn sàng chuyển 120 [[sư đoàn]] bộ binh (mỗi sư đoàn có 10.000 quân), 16 sư đoàn pháo binh, 5.000 pháo hạng nặng, 9.500 xe tăng và khoảng 5.500 máy bay đến biên giới Đức để kiềm chế Hitler; nhưng phái đoàn Anh và Pháp đã không đáp lại đề nghị này.
[[Tập tin:Bundesarchiv Bild 183-R69173, Münchener Abkommen, Staatschefs.jpg|nhỏ|trái|270px|Lễ ký [[Hiệp ước Munich]] giữa Anh, Pháp, Ý và Đức. Hai nước Anh-Pháp công nhận việc Đức sáp nhập [[Áo]], đồng thời gây sức ép buộc [[Tiệp Khắc]] phải cắt lãnh thổ cho Đức. Đứng giữa là quốc trưởng Đức - [[Adolf Hitler]]]]
Ngược lại, Anh - Pháp lại nhận lời mời của Ngoại trưởng Đức Ribbentrop và tham gia ký [[Hiệp ước München|Hiệp ước Munich]] trong ngày 29, 30 tháng 9 năm 1938 giữa
Tháng 4 năm 1939, trong một nỗ lực cuối cùng để cứu vãn nền an ninh tập thể của châu Âu, Liên Xô mở lại các cuộc thương lượng với Anh và Pháp nhằm tìm kiếm một hiệp định tương trợ thật sự với các nước Tây Âu và Đông Âu. Mặc dù người Nga thực lòng muốn ký một hiệp ước phòng thủ chung càng sớm càng tốt với Anh và Pháp nhưng họ đã vấp phải sự lạnh nhạt của các chính phủ này<ref name="Quang 1945">Lê văn Quang, Lịch sử quan hệ quốc tế từ 1917 đến 1945, Nhà xuất bản Giáo dục, 2003, trang 157</ref> hiệp định tương trợ mà Liên Xô muốn xây dựng với các nước Tây Âu để ngăn chặn Đức Quốc xã đã không thể được thực hiện
Ngày 7 tháng 6 năm 1939, [[hiệp ước không xâm lược lẫn nhau]] cũng được Đức Quốc xã tiếp tục ký với ba nước [[Baltic]] (
Việc Anh, Pháp từ chối lập liên minh với Liên Xô và còn ký với Đức "Hiệp ước không xâm phạm lẫn nhau", đồng thời bỏ mặc đồng minh Tiệp Khắc cho Đức tiêu diệt, tất cả khiến Liên Xô thấy rằng phương Tây không hề thực tâm trong việc ngăn chặn Hitler, mà thực ra họ đang tìm cách lợi dụng cỗ máy chiến tranh Đức để tiêu diệt Liên Xô. Lập trường của các cường quốc phương Tây đưa Liên Xô đứng trước 2 sự lựa chọn: hoặc sẽ bị cô lập và phải một mình chống đỡ với các cuộc tấn công của phát xít Đức; hoặc phải đàm phán với Đức để ký một hiệp ước không xâm lược nhằm tranh thủ thời gian củng cố quân đội. Tình hình cho thấy sự lựa chọn thứ hai là không thể tránh khỏi, và Liên Xô phải tìm cách hòa hoãn với Đức.<ref>{{Chú thích web | url = http://www.booksite.ru/fulltext/1/001/008/007/174.htm | tiêu đề = ������ ������� ����� 1939 | tác giả 1 = | ngày = | ngày truy cập = | nơi xuất bản = | ngôn ngữ = }}</ref>
Trong vòng 1 năm, tới tháng 8 năm [[1939]], mối quan hệ Liên Xô – Đức đã có sự thay đổi lớn: từ quan hệ thù địch về tư tưởng và quyền lợi, hai nước liên tiếp ký kết các hiệp ước [[thương mại]], hiệp ước hữu nghị và giúp đỡ lẫn nhau. Trong mối quan hệ an ninh quốc phòng hai nước ký [[hiệp ước Xô-Đức|hiệp ước không xâm phạm lẫn nhau]] và [[biên bản bí mật]] phân chia khu vực ảnh hưởng giữa Đức và Liên Xô trên lãnh thổ các quốc gia khác. Xa hơn nữa
Mối quan hệ hữu hảo toàn diện Liên
Hiệp ước hòa bình giữa Đức – Liên Xô đảm bảo cho Đức không phải chiến đấu trên hai mặt trận trong chiến tranh thế giới mà Hitler đang trù tính và sẽ sắp xảy ra, đồng thời phía Đức sẽ có nguồn nhập khẩu các nguyên liệu chiến lược từ phía Liên Xô mà không sợ vòng vây trên biển của khối [[Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland|Anh]] – [[Pháp]] phong toả, ngoài ra hạm đội [[tàu ngầm]] Đức còn được phép đi ngang qua các căn cứ hải quân Xô viết gần [[Biển Bắc]] trong [[Trận chiến Đại Tây Dương (1939-1945)|chiến tranh Đại Tây Dương]] phong toả nước Anh. Các cơ quan mật vụ an ninh của hai nước cũng hợp tác trong việc cung cấp thông tin, dẫn độ các những người Đức [[chống phát xít]] và các phần tử kháng chiến Ba Lan giao cho mật vụ [[Sicherheitsdienst]] (SD) của Đức: đến tháng 6 năm 1941 phía Liên Xô đã giao cho Đức khoảng 4.000 người trong đó có cả những đảng viên Đảng Cộng sản Đức cùng thân nhân của họ, về phía mình mật vụ SD cũng giao cho phía Liên Xô những người mà [[NKVD]] tìm kiếm<ref>''Berezhkov: Tôi trở thành phiên dịch của Stalin như thế nào'' (Бережков ВМ: Как Я стал переводчиком Сталина), trang 47, 48 tại [http://militera.lib.ru/memo/ Dự án hồi ký]</ref>...
Phía Liên Xô bằng
[[Tập tin:Germans and Soviets2.jpg|nhỏ|phải|240px|Sĩ quan Hồng quân và Đức trò chuyện trên đất Ba Lan]]
Theo đúng tinh thần của biên bản bí mật, ngay sau khi Đức tấn công Ba Lan gây chiến tranh thế giới ([[1 tháng 9]] năm [[1939]]), Quân đội Xô Viết tiến quân chiếm lại Tây Belarus, Tây Ukraina từ tay Ba Lan (vùng lãnh thổ mà Ba Lan đã chiếm của họ sau cuộc chiến năm 1921), đòi lại vùng [[Bessarabia]] (vùng lãnh thổ mà Romania chiếm của Nga từ năm 1922) để lập nên nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Moldavia (ngày nay là [[Moldova]]). Năm 1940, Liên Xô sáp nhập ba quốc gia vùng [[Biển Baltic]]: [[Estonia]], [[Latvia]], [[Litva]] lập nên ba nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa vùng Baltic và gây chiến tranh chống [[Phần Lan]] để đòi lại dải đất [[Karelia (tỉnh)|Karelia]] (vùng lãnh thổ mà [[Phần Lan]] chiếm của Nga từ năm 1922) để lập nên nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Karelia... Bằng việc
Thực chất của cuộc chơi [[chính trị]] – [[ngoại giao]] này được thể hiện rõ qua [[Adolf Hitler]]: Hitler không bao giờ từ bỏ lập trường nguyên tắc của mình và luôn coi việc ''"giải quyết vấn đề [[người Slav]]"'' là mục đích số một của đời mình (sách [[Mein Kampf]]). Khi ký kết hiệp ước với Stalin, Hitler đã đạt được hai mục đích: một mặt đã phân hoá được các địch thủ Anh, Pháp, Liên Xô để tránh được việc phải chiến đấu trên hai mặt trận và đã đảm bảo thắng lợi trên chiến trường Ba Lan và châu Âu trong hai năm 1939 và 1940. Mặt khác những hiệp định này đã giúp cho Stalin rằng sẽ tránh được nguy cơ chiến tranh nổ ra sớm với Đức, và sau này yếu tố bất ngờ đã có vai trò rất lớn trong giai đoạn đầu thắng lợi của quân đội Đức trong chiến tranh Xô – Đức. Tất cả những nhượng bộ và giúp đỡ của phía Đức cho Liên Xô theo tính toán của Hitler chỉ là tạm thời và sẽ bị vô hiệu hoá khi chiến tranh chống Liên Xô bắt đầu và các toan tính này của Hitler đã thành công.
Về phía Stalin và ban lãnh đạo Liên Xô, họ không bao giờ tin tưởng vào sự thành thật của Hitler nhưng đã bị đánh lạc hướng về thời điểm cuộc chiến sẽ nổ ra. Họ biết chiến tranh với Đức sẽ nổ ra nhưng cho rằng không thể sớm hơn năm 1942. Thủ tướng Anh [[Winston Churchill]] từng cảnh báo trước cho Stalin biết về việc Đức sẽ tấn công Liên Xô, Stalin chỉ nói ngắn gọn: ''"Tôi không cần lời cảnh báo nào cả. Tôi biết chiến tranh sẽ nổ ra, nhưng tôi tin sẽ có thể làm nó chậm lại nửa năm nữa"''<ref>[http://antgct.cand.com.vn/pages/nhanvat/2011/1/56050.cand Chỉ vì nghi chồng ngoại tình | Báo Công an nhân dân điện tử<!-- Bot generated title -->]</ref> Tại cuộc họp
Sau những yếu kém rất rõ rệt của [[Hồng Quân|Hồng quân Liên Xô]] trong [[Chiến tranh Liên Xô-Phần Lan]] và sự thể hiện sức mạnh ghê gớm của quân đội Đức trong các chiến thắng tại chiến trường châu Âu, Stalin không muốn Liên Xô phải đương đầu với cuộc tấn công của Đức khi chưa có đủ thời gian chuẩn bị. Stalin coi những thông tin tình báo về khả năng Đức tấn công chỉ là những đòn hỏa mù để khiêu khích Liên Xô gây chiến trước, ông tránh mọi hành động để có thể bị coi là khiêu khích Đức, không cho phép quân đội áp dụng các biện pháp dự phòng và sẵn sàng chiến đấu... Ban lãnh đạo Liên Xô cho rằng sau khi đánh bại nước [[Anh]] thì Đức mới có thể tấn công Liên Xô, đó là tính toán hợp lý nhất đối với Đức để tránh phải giao chiến trên cả hai mặt trận, nhưng tính cách bốc đồng, ưa phiêu lưu của Hitler đã làm đảo lộn tính toán này (Đức đã tấn công sang phía đông dù Anh
Nhưng ở một khía cạnh khác, việc dự đoán thời điểm Đức tấn công là không dễ, nếu đổ lỗi cho Stalin và ban lãnh đạo của ông cũng là không công bằng. Trong cuộc đấu này, Đức là bên chủ động, còn Liên Xô là bên bị động. Trước chiến tranh, Đức liên tiếp tung ra những tin tình báo giả, vô số những thời hạn tấn công đã được "hoạch định" rồi cố tình để lộ ra, làm nhiễu loạn tình báo Liên Xô. Mặt khác, tình báo [[Anh]] cũng tung ra những tin tức tương tự nhằm mong Liên Xô sẽ khai chiến với Đức. Nếu Stalin tin theo những dự đoán đó mà manh động thì không chỉ lãng phí thời gian chuẩn bị chiến tranh và huấn luyện quân đội, mà còn có thể khiến chiến tranh nổ ra sớm hơn. Trong [[Chiến tranh thế giới thứ nhất]], khi Nga hoàng ra lệnh tổng động viên, Đức đã ngay lập tức tuyên chiến với Nga, và Stalin không muốn điều đó lặp lại.
Quan trọng hơn, trong giai đoạn 2 năm hòa hoãn có được, Stalin và ban lãnh đạo Liên Xô cũng đã làm được nhiều việc, gây dựng nền móng to lớn cho quân đội Xô viết. Công nghiệp quốc phòng của Liên Xô có bước phát triển lớn. Kể từ
== Diễn biến ==
Dòng 110:
Trong khi các nhà sử học [[Đức]] không áp dụng bất kỳ sự chỉ định cụ thể cho các diễn biến tại Mặt trận phía đông, tất cả các sử gia [[Liên Xô]] (trước đây) và [[Nga]] (hiện tại) chia cuộc chiến tranh chống Đức của họ thành ba giai đoạn:
* '''Giai đoạn đầu của Chiến tranh thế giới thứ hai:''' Giai đoạn phòng ngự (từ ngày [[22 tháng 6]] năm [[1941]] đến ngày [[18 tháng 11]] năm [[1942]]), bao gồm:
** Chiến dịch Hè-Thu 1941: [[22 tháng 6]] - [[4 tháng 12]] năm 1941.
** Chiến dịch Mùa đông 1941-1942: [[5 tháng 12]] năm 1941 - [[30 tháng 4]] năm 1942.
** Chiến dịch Hè-Thu 1942: [[1 tháng 5]] - [[18 tháng 11]] năm 1942.
Dòng 278:
* Quân đội Đức thi hành chính sách [[con tin]] và "lá chắn" đối với dân thường: trong những vùng bị chiếm đóng một binh sĩ Đức bị dân hoặc những người kháng chiến bí mật giết thì sẽ có 10 – 20 dân thường bị hành quyết để trả thù. Một chiến thuật rất thường gặp của Quân Đức để tránh sự tấn công của du kích và Hồng quân là lấy thường dân phụ nữ, trẻ em và tù binh làm lá chắn: các chuyến tàu hoả chở quân Đức thường kéo theo vài toa tù binh hoặc dân thường để làm lá chắn.
Khi Đức tấn công, đã có những dân tộc bất mãn với chính quyền Xô Viết như [[người Chechen]] và [[Người Thổ Nhĩ Kỳ|người Thổ]] tại Kavkaz, người [[Người Tatar|Tartar]] ở Crimea, các dân tộc tại [[Biển Baltic|Baltic]] bị Liên Xô xâm lược năm 1940, [[
Đối với tù binh Xô Viết cách đối xử cũng là tiêu diệt dần dần một cách có hệ thống, chỉ một bộ phận rất nhỏ tù binh Xô Viết để tìm cách tồn tại đã gia nhập [[Quân đội giải phóng Nga]] của trung tướng Xô Viết đã đầu hàng [[Andrey Andreyevich Vlasov]] còn những tù binh còn lại bị lao động khổ sai với cường độ huỷ diệt trong các trại tập trung và bị hành quyết thường kỳ. Trong số 5,5 triệu binh sỹ hoặc thường dân Xô Viết bị quân Đức bắt, đã có 3,5 triệu người chết trong các trại tập trung của Đức Quốc xã.
Dòng 628:
Ngược lại với Đức, việc hoạch định sản xuất của Liên Xô đạt hiệu quả rất lớn:
* Với sự lãnh đạo tài ba của Iosif Stalin, Liên Xô đã hoàn thành [[công nghiệp hóa]], đạt những bước tiến công nghệ tương đương 50 năm chỉ trong một khoảng thời gian là 10 năm. Các tổ hợp công nghiệp Liên Xô có thể sản xuất hàng loạt theo dây chuyền với một tiến độ rất nhanh, các nhà máy cũng bố trí liên kết với nhau chứ không phân tán như các nhà máy Đức, nên càng giúp tiết kiệm thời gian sản xuất.
* Liên Xô chuẩn bị cho nguy cơ bị xâm lược ngay từ sớm. Nhờ thành công của việc công nghiệp hóa cũng như mô hình kinh tế tập trung kế hoạch hóa cao độ, Liên Xô có thể huy động tối đa các nguồn lực để tái cơ cấu nền kinh tế cho thời chiến. Các kế hoạch trước chiến tranh cho phép Liên Xô thực hiện các biện pháp khẩn cấp nhằm duy trì nền kinh tế thời chiến, chỉ trong 3 tháng Liên Xô đã có thể di chuyển 5,9 triệu công nhân vào miền Trung Á và dãy Ural để tránh khỏi sự xâm lược của Đức. Bất chấp việc Đức đã gây ra thiệt hại lớn cho sản xuất của Liên Xô (sản xuất công nghiệp năm 1942 chỉ bằng 86% so với năm 1940), sản xuất công nghiệp của Liên Xô cuối cùng vẫn vượt trội Đức.
* Các quân đội phương Tây trong [[Thế chiến thứ hai]] vẫn mô phỏng theo cách của thời [[Napoleon]] - cung cấp cho mỗi sư đoàn chiến đấu một đơn vị hậu cần và đơn vị này sẽ rút ra khu vực phía sau khi cần thiết. Liên Xô đảo ngược thứ tự - các đơn vị hậu cần được tổ chức chuyên biệt (hiệu quả hơn), cho phép có thêm quân chiến đấu ở tiền tuyến.
* Trái ngược với Đức, các nhà máy vũ khí Liên Xô tập trung vào việc cải tiến các thiết kế vũ khí sẵn có, hạn chế việc đưa ra các thiết kế mới hoàn toàn (để tránh việc làm sụt giảm sản lượng và tăng chi phí). Ví dụ điển hình nhất là xe tăng hạng nặng, suốt chiến tranh Liên Xô chỉ sản xuất một loại xe tăng mới ([[xe tăng Iosif Stalin]]) trong khi Đức sản xuất tới ba loại (Panther, Tiger I và Tiger II).
Hàng 635 ⟶ 636:
===Số liệu sản xuất chi tiết===
Về trợ giúp từ bên ngoài, phía Liên Xô nhận được viện trợ (khoảng 9,8 tỷ USD) từ Anh
Trong khi đó, phía Đức cũng nhận được sự hỗ trợ rất lớn về nhân công và nguyên liệu từ các nước phe Trục ([[Hungary]], [[Bulgari]], [[Romania]], Pháp Vichy...). Ví dụ, khoảng một nửa lượng [[dầu mỏ]] mà Đức sử dụng là do [[Romania]] cung cấp, hơn 1 nửa lượng quặng sắt của Đức là do [[Thụy Điển]] cung cấp. Khoảng 1/3 nhân công sản xuất của Đức là lao động lấy từ các nước phe Trục và các vùng chiếm đóng. Nhiều vũ khí của Đức cũng được sản xuất ở các nhà máy mà Đức chiếm được của các nước thua trận (Pháp, Ba Lan, Tiệp Khắc...)
{| class="wikitable"
Hàng 896 ⟶ 899:
==Sự hỗ trợ của các nước khác==
===Hỗ trợ cho Đức===
Phía Đức Quốc xã nhận được sự hỗ trợ từ 9 nước đồng minh (phát xít [[Ý]], [[Romania]], [[Bulgaria]], [[Hungary]], [[Phần Lan]], [[Slovakia]], [[Croatia]], [[Vichy Pháp]] và [[Tây Ban Nha]]), 9 nước này đã cung cấp cho Đức khoảng 20% quân số, 1/3 số lao động và hơn một nửa lượng nguyên vật liệu để sản xuất vũ khí. Đức Quốc xã đã huy động nguồn nhân lực, toàn bộ các kho vũ khí, dự trữ kim loại, các nguyên liệu chiến lược, huy động gần như toàn bộ nền công nghiệp quân sự của toàn [[Tây Âu]] và [[Trung Âu]] vào cuộc chiến chống Liên Xô<ref name="Doberin 1986 99"/>, ngoài ra Đức còn tuyển mộ hàng trăm ngàn [[lính đánh thuê]] từ các nước vùng [[Baltic]], [[Nam Tư]], [[Đan Mạch]], [[người
[[Tập tin:Europe under Nazi domination.png|thumb|300px|Vùng chiếm đóng của Đức (màu xám đậm) hoặc các nước đồng minh của Đức (màu xám nhạt) năm 1942. Đức đã huy động rất nhiều nhân lực, tài nguyên từ các nước này chứ không chỉ sử dụng nguồn lực trong nước]]
Hàng 912 ⟶ 915:
===Hỗ trợ cho Liên Xô===
Trong quá trình chiến tranh, Liên Xô đã nhận được 17.499.861 tấn hàng hóa viện trợ của Mỹ-Anh theo chương trình [[Lend-Lease]] (cho vay - cho thuê), tương đương 9,8 tỷ USD (thời giá 1945). Riêng khoản viện trợ của [[Hoa Kỳ]] dành cho [[Liên Xô]] từ ngày 1 tháng 10 năm 1941 đến 31 tháng 5 năm 1945 bao gồm: 427.284 xe vận tải, 13.303 phương tiện chiến đấu, 35.170 xe mô tô, 2.328 xe tiếp tế quân nhu, 2.670.371 tấn các loại sản phẩm từ [[dầu mỏ]] (gồm xăng và dầu) <ref name="Weeks 2004, p. 9">Russia's Life-Saver: Lend-Lease Aid to the U.S.S.R. in World War II, pp 9, Albert L. Weeks, Lexington Books, Jan 29, 2004</ref>, 4.478.116 tấn thực phẩm (thịt hộp, đường, bột, muối, vv), 1.911 đầu máy hơi nước, 66 đầu máy xe lửa Diesel, 1.000 xe ô tô, 120 xe thùng và 35 xe máy hạng nặng<ref name="Weeks 2004, p. 9"/>, 12.000 xe tăng - thiết giáp (bao gồm 7.000 xe tăng, khoảng 1.386 trong số đó là [[M3 Lee]] và 4.102 là [[M4 Sherman]]) <ref>''Lend-Lease Shipments: World War II'', Section IIIB, Published by Office, Chief of Finance, War Department, ngày 31 tháng 12 năm 1946, p. 8.</ref>; 11.400 máy bay (4.719 trong số đó là Bell P-39 Airacobras) <ref>{{harvnb|Hardesty|1991|p=253}}</ref>. Theo báo cáo ngày 21/3/1944 của Phó chủ tịch Hội đồng Dân ủy Liên Xô A. Mikoyan, trong thời gian từ ngày 1/5/1941 tới 1/5/1944, tổng trị giá số hàng Lend-lease là 4,612 tỉ USD. Nếu so sánh với 9,8 tỉ USD tổng giá trị thì có thể thấy hơn một nửa số hàng Lend-lease được cung cấp chỉ trong 1 năm cuối cùng của cuộc chiến tranh<ref>[https://tuoitre.vn/my---lien-xo-amp-voi-nuoc-chua-lua-77554.htm Mỹ - Liên Xô & "vòi nước chữa lửa"]</ref>.
Một số quan điểm cho rằng Phương Tây đã thổi phồng quá mức vai trò của khoản viện trợ cho Liên Xô. Tổng giá trị viện trợ chỉ bằng 4% tổng lượng sản xuất của Liên Xô trong những năm chiến tranh (trong khi Liên Xô phải chống đỡ 70% binh lực của Đức và chư hầu). Do vậy, những quan điểm này đã cho rằng viện trợ lend-lease đóng góp không đáng kể vào chiến thắng của các lực lượng vũ trang Xô viết. Ngoài ra, viện trợ trong năm 1941 (khi Liên Xô đang cần nhất) lại khá nhỏ giọt, trong khi tới 56,5% giá trị viện trợ lend-lease chỉ đến Liên Xô vào năm cuối cùng của cuộc chiến tranh (từ tháng 1/1944 tới tháng 5/1945)<ref>Hans-Adolf Jacobsen: ''1939–1945, Der Zweite Weltkrieg in Chronik und Dokumenten''. Darmstadt 1961, p. 568. (German Language)</ref>, khi đó mức sản xuất của Liên Xô đã vượt xa Đức nhiều lần. Chưa kể nhiều học giả [[Xô viết]] cho biết rằng những loại vũ khí mà Mỹ viện trợ cho Liên Xô trong giai đoạn này bị binh sĩ Hồng quân chê bai khá nhiều và ít khi sử dụng (ví dụ như xe tăng [[M3 Stuart]] hay [[tiểu liên Thompson]] bị đánh giá là thiếu sức mạnh và dễ hỏng hóc so với vũ khí tương ứng do Liên Xô chế tạo như [[T-34]] và [[PPSh-41]]). Nhiều loại xe tăng của Mỹ và Anh viện trợ cho Liên Xô không hoàn chỉnh và bị thiếu kính ngắm, phụ tùng, bộ dụng cụ bảo trì và sửa chữa... Những quả đạn nổ cho pháo 75mm trên xe tăng Mỹ có xu hướng phát nổ bất ngờ. Stalin đã phàn nàn với Roosevelt trong một lá thư vào năm 1942: ''"Theo các chuyên gia của chúng tôi ở mặt trận, xe tăng Mỹ dễ dàng bị đốt cháy bởi những khẩu pháo chống tăng bắn vào phía sau hoặc hai bên. Đó là do nhiên liệu xăng của các xe tăng Mỹ khi bị đốt nóng đã tạo ra một lớp khói xăng dày bên trong các xe tăng, tạo điều kiện cho quá trình bốc cháy"''<ref name="sputniknews.com">https://sputniknews.com/analysis/2005032539700464/</ref> Xe tăng [[M3 Lee]] của Mỹ bị lính Liên Xô gán cho biệt danh là ''"БМ-6 - братская могила vào шестерых"'', nghĩa là ''"ngôi mộ tập thể cho sáu người"'', như một cách để mỉa mai hỏa lực và vỏ giáp yếu của loại xe này<ref>http://opoccuu.com/m3-lee.htm</ref>.
Nhà ngoại giao [[Vyacheslav Molotov]] tuyên bố năm 1945 rằng ''"đất nước ta đã cung cấp tất cả các yếu tố cần thiết cho quân đội anh hùng của chúng ta"''. Các nhà sử học khác như Roger Munting đã lập luận rằng sự viện trợ của Đồng minh (Lend-Lease) không bao giờ chiếm hơn 4% sản lượng công nghiệp thời chiến của Liên Xô<ref>Roger Munting,
[[Harry Lloyd Hopkins]], cố vấn của Tổng thống Roosevelt, nhận định: ''
Một số ý kiến khác lại khẳng định rằng [[Lend-Lease]] thực sự có ý nghĩa lớn trong chiến thắng của Liên Xô trước [[Đức Quốc xã]]. Vào thời đó việc vận chuyển vũ khí và nhu yếu phẩm của Liên Xô phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động vận tải đường sắt, nhưng Liên Xô đã chấm dứt sản xuất các thiết bị đường sắt kể từ năm 1941 để chuyển sang sản xuất xe tăng. Lend-Lease đã cung cấp 92% tổng số các thiết bị đường sắt cho Liên Xô<ref name="Weeks 2004, p. 9"/><ref>{{harvnb|Weeks|2004|p=146}}</ref><ref>{{Chú thích web |url=http://mikes.railhistory.railfan.net/r097.html/ |tiêu đề=Russia and Serbia, A Century of Progress in Rail Transport|nhà xuất bản=Open Publishing |ngày tháng=July 2008 |website=A Look at Railways History in 1935 and Before |accessdate =ngày 9 tháng 6 năm 2016}}</ref> bao gồm 1
Trong cuộc chiến tranh, chính phủ Liên Xô đã cố gắng hạ thấp vai trò của các khoản viện trợ nước ngoài, điều này khiến Đại sứ Mỹ tại Liên Xô lúc đó là William Standley tức giận: "''Có vẻ như chính phủ Nga muốn che giấu đi sự thật rằng họ đang nhận được sự giúp đỡ từ bên ngoài. Rõ ràng là họ muốn người dân tin rằng Hồng quân đang chiến đấu một mình trong cuộc chiến này''". Cơ quan kiểm duyệt của Nga sau đó đã cho phép phát biểu này của Standley được đăng lên các tờ báo trong cả nước<ref name="gazeta.ru">[https://www.gazeta.ru/science/2016/03/11_a_8115965.shtml?updated Lend-Lease: How American supplies aided the USSR in its darkest hour]</ref>.
Một số quan điểm khác thì lại cho rằng "
Chuyên gia quân sự Nga Andrey Chaplygin tin rằng Liên Xô vẫn sẽ chiến thắng trong cuộc thế chiến dù không có lend - lease, nhưng chương trình này cũng giúp Liên Xô giảm thiểu tổn thất trên con đường đi đến Chiến thắng. Còn đối với Mỹ thì lend - lease trước hết, như chính Tổng thống Mỹ [[Franklin D. Roosevelt]] đã từng nói: ''“Đó là một khoản đầu tư sinh lời”''<ref>http://baodatviet.vn/the-gioi/ho-so/su-that-my-da-giup-lien-xo-nhu-the-nao-3311777/?paged=4</ref>. Một người Nga đã nói: ''"Chúng ta đã hy sinh hàng triệu người (để góp phần cho chiến thắng của Đồng Minh), và họ (Mỹ) muốn chúng ta phải cúi rạp trước mặt họ chỉ vì họ gửi thịt đóng hộp cho chúng ta sao. Một kẻ thực dụng có bao giờ làm bất cứ điều gì mà không đem lại lợi ích cho ông ta? Đừng nói với tôi rằng Lend - lease là một khoản tiền từ thiện"''<ref name="gazeta.ru"/>.
Sau chiến tranh, Mỹ đã yêu cầu Liên Xô trả 1,3 tỷ USD cho khoản nợ còn lại từ chương trình Lend-Lease, nhưng chính phủ Liên Xô cho biết họ chỉ có thể trả 170 triệu USD. Chính phủ Hoa Kỳ không chấp nhận điều kiện này, dẫn đến các cuộc đàm phán vào năm 1972 và kết quả đã đi tới một thỏa thuận giữa 2 nước, theo đó Liên Xô có nghĩa vụ phải trả đủ 722 triệu USD cho Mỹ cho đến năm 2001. Năm 1990, Mỹ và Liên Xô trở lại đàm phán. Hai bên đã đi đến quyết định rằng đến năm 2030, Liên Xô sẽ trả đủ cho Mỹ khoản tiền còn lại là 674 triệu USD. Tuy vậy chỉ 1 năm sau, Liên Xô sụp đổ. Vào năm 1993, chính phủ Nga đã tuyên bố họ sẽ kế thừa các khoản nợ của Liên Xô và sẽ sớm thanh toán cho tất cả số hàng hóa mà Liên Xô đã nhận được theo dự luật Lend-Lease.<ref name="gazeta.ru"/>
Hàng 1.019 ⟶ 1.022:
* [http://victory.tass-online.ru/ ИТАР-ТАСС: 60 лет Великой победы] — хроника юбилейного года, агитплакаты, карты, фотодокументы, советское оружие, основные награды.
* [http://liewar.ru Великая Оболганная война] — разоблачение мифов, фальшивок и пропагандистских штампов о войне.
* [
* [http://militera.lib.ru/research/dukov_ar/index.html Дюков А. Р. За что сражались советские люди, Яуза, Эксмо, 2007]
* [http://www.zpu-journal.ru/zpu/2005_2/Ilinskiy/1.pdf Игорь Михайлович Ильинский, Великая Победа: наследие и наследники, Знание. Понимание. Умение,2005, 2, 5-18]
|