Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Người Yakut”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 32:
 
Từ những năm 1620, [[Sa quốc Nga |Sa hoàng Muscovy]] mở rộng lãnh thổ đến các vùng này, áp thuế lông thú, và trấn áp một số cuộc nổi dậy của người Yakut từ năm 1634 đến 1642. Sự tàn bạo của Nga hoàng trong việc thu thuế da thú (yasak) châm ngòi một cuộc nổi dậy của người Yakut và cả những bộ lạc nói [[Ngữ hệ Tungus |tiếng Tungus]] dọc theo [[sông Lena]] vào năm 1642. Lãnh chúa (''voivod'') Peter Golovin thống lĩnh lực lượng Nga hoàng, đã đáp trả bằng cuộc khủng bố: các khu định cư bản địa bị đốt cháy và hàng trăm người đã bị giết. Riêng dân số Yakut được ước tính đã giảm 70% trong khoảng thời gian từ năm 1642 đến năm 1682, chủ yếu là do bệnh đậu mùa và các bệnh truyền nhiễm khác.<ref>{{Chú thích sách | last1 =Richards | first1 =John F. | title =The Unending Frontier: An Environmental History of the Early Modern World | date =2003 | publisher =University of California Press | isbn =0520939352 | page =538 | url =https://books.google.com/books?id=i85noYD9C0EC&pg=PA538}}</ref><ref>{{citation | title =The massacre in history | editor1 =Mark Levene | editor2 =Penny Roberts | page =155 | year =1999}}</ref>
 
Sang thế kỷ 18 người Nga đã giảm bớt áp lực, trao cho các thủ lĩnh Yakut một số đặc quyền, tự do cho tất cả các môi trường sống, cho họ tất cả đất đai của họ, truyền bá [[Chính thống giáo phương Đông]] và giáo dục người Yakut về nông nghiệp. Việc phát hiện ra vàng và sau đó là việc xây dựng [[Đường sắt xuyên Sibir]], đã đưa số lượng người Nga đến khu vực ngày càng tăng. Vào những năm 1820 hầu như tất cả những người Yakut tuyên bố đã cải sang nhà thờ Chính thống giáo Nga, đồng thời vẫn giữ một số tập tục của thầy cúng như tổ tiên.<ref>Л.А. Сергеева. [http://elar.urfu.ru/bitstream/10995/39179/1/vtop_19_17.pdf О якутских фамилиях].</ref>
 
Năm 1922 chính phủ Liên Xô đặt tên khu vực này là Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết Tự trị Yakut. Cuộc xung đột cuối cùng trong [[Nội chiến Nga]], được gọi là [[Cuộc nổi dậy Yakut]], do sĩ quan Nga [[Bạch vệ]] Cornet Mikhail Korobeinikov lãnh đạo, và là người cuối cùng chống lại [[Hồng quân]]. Sau đó là các chính sách của Joseph Stalin, dẫn đến nạn đói và suy dinh dưỡng, đã khiến tổng dân số Yakut giảm từ 240 ngàn người năm 1926 xuống còn 236 ngàn người năm 1959. Đến năm 1972 dân số bắt đầu phục hồi.<ref>{{Chú thích web | url =http://www.geocurrents.info/place/russia-ukraine-and-caucasus/siberia/the-yakut-under-soviet-rule| title =The Yakut Under Soviet Rule | last1 =Lewis | first1 =Martin | date =14 May 2012 | website =GeoCurrents | publisher = | accessdate =ngày 20 tháng 10 năm 2020 }}</ref>
 
== Tham khảo ==